TRUYỆN NGẮN “MỘT CON NGƯỜI RA ĐỜI”
MAKSIM GORKY
MỤC LỤC
MỤC LỤC
ĐỀ TÀI: TRUYỆN NGẮN “MỘT CON
NGƯỜI RA ĐỜI”
I.KHÁI QUÁT CHUNG:
1. Tác giả:
1.1. Cuộc đời:
1.2. Sự nghiệp:
2. Tác phẩm:
2.1. Hoàn cảnh sáng tác:
2.2. Tóm tắt tác phẩm:
II.
ĐẶC SẮC TRUYỆN NGẮN CỦA GOR-KY TRONG TÁC PHẨM “MỘT CON NGƯỜI RA ĐỜI”:
1.Bút pháp
lãng mạn kết hợp với nghệ thuật miêu tả:
2.Bút pháp hiện thực:
3.Nhân vật “Tôi” trong truyện ngắn “Một con
người ra đời”:
4. Quan niệm về con người của M.Gorky qua “Một Con Người ra đời”.
III.
TỔNG KẾT:
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
I.KHÁI QUÁT CHUNG:
1.
Tác giả:
1.1. Cuộc
đời:
- Ông là nhà văn xuất sắc của
nước Nga, tên thật Alêchxây Măcximôvich Pêscôp, sinh năm 1868, mất
1936, xuất thân trong một gia đình lao động nghèo.
- Ông có tuổi thơ nhiều bất hạnh: Sớm mồ côi cha mẹ, phải bỏ học để kiếm sống bằng nhiều nghề, trải qua nhiều cay đắng tủi nhục .
- Ông có tinh thần say mê học tập, kiên trì tự học, khao khát vươn lên bằng sự phấn đấu không mệt mỏi của bản thân .
- Ông tham gia hoạt động cách mạng rất sớm (1905), khi nước Nga đang chuyển mình dữ dội để đoạn tuyệt với chế độ chuyên chế Nga hoàng cuối thế kỉ XIX để bước vào thời đại mới .
- Gorki có ảnh hưởng sâu rộng đối với nhiều thế hệ nhà văn và đối với sự phát triển của văn học Xô viết sau này, Lê Nin ca ngợi ông là: “Đại diện vĩ đại nhất của nghệ thuật vô sản” .
1.2. Sự nghiệp:
- Ông có tuổi thơ nhiều bất hạnh: Sớm mồ côi cha mẹ, phải bỏ học để kiếm sống bằng nhiều nghề, trải qua nhiều cay đắng tủi nhục .
- Ông có tinh thần say mê học tập, kiên trì tự học, khao khát vươn lên bằng sự phấn đấu không mệt mỏi của bản thân .
- Ông tham gia hoạt động cách mạng rất sớm (1905), khi nước Nga đang chuyển mình dữ dội để đoạn tuyệt với chế độ chuyên chế Nga hoàng cuối thế kỉ XIX để bước vào thời đại mới .
- Gorki có ảnh hưởng sâu rộng đối với nhiều thế hệ nhà văn và đối với sự phát triển của văn học Xô viết sau này, Lê Nin ca ngợi ông là: “Đại diện vĩ đại nhất của nghệ thuật vô sản” .
1.2. Sự nghiệp:
-Bằng nghị lực phi thường, với niềm khao khát cháy bỏng giải thoát nhân
dân khỏi đói nghèo, ông đã nổ lực học tập và bền bỉ sáng tác. Sáng tác của
Gorki thật đồ sộ, gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản văn
học, văn chính luận, chân dung văn học...
-Tên tuổi của Gorki gắn liền với bộ ba tự thuật: “Thời thơ ấu”, “Kiếm
sống”, “Những trường đại học của tôi”.
-Ngoài ra còn có tiểu thuyết “Người mẹ”, vở kịch “Dưới đáy” và hàng trăm
truyện ngắn. Đặc biệt là truyện ngắn “Bà lão Iderghin”, “Bài ca chim ưng”...đã
khắc sâu vào trái tim độc giả bao thế hệ nay.
=> Sáng tác của Gorki thấm đẫm vẻ đẹp nhân văn hiếm có. Gorki là nhà văn vĩ đại cho thế hệ trẻ niềm tin, về dũng khí và sáng tạo để bước vào thế kỉ XX.
=> Sáng tác của Gorki thấm đẫm vẻ đẹp nhân văn hiếm có. Gorki là nhà văn vĩ đại cho thế hệ trẻ niềm tin, về dũng khí và sáng tạo để bước vào thế kỉ XX.
2. Tác phẩm:
2.1.
Hoàn cảnh sáng tác:
-“Một con người
ra đời” (1912) là truyện được viết trong bối cảnh nước Nga đang trải qua thời
kì “đêm trước của Cách mạng tháng Mười”.
2.2. Tóm
tắt tác phẩm:
Vào năm 1892, ở miền Nam
nước Nga, một đoàn người đói khổ kéo nhau đến Otsemtsiry kiếm
việc làm, họ đến vùng ven biển.Trong đoàn người này,có một phụ nữ trẻ, khoẻ
mạnh, mang thay sắp đến ngày sinh nở. Chị chuyển dạ và lên cơn đau dữ dội. Chị
đau đớn tột cùng vật vã, kêu rống khủng khiếp như trong ngày tận thế. Nhờ có sự
giúp đỡ tận tình của một chàng trai vừa nhanh nhẹn, vừa khéo tay vui tính, người
phụ nữ đã vượt qua đau đớn, sinh được một bé trai đầu lòng khoẻ mạnh kháu
khỉnh.Như có sức mạnh diệu kỳ,cháu bé đã khiến cho người mẹ và chàng thanh niên
quên đi những gian khổ trước mắt và họ cùng sung sướng tự hào. Chính đứa bé đã
đem đến cho đoàn người đang sống trong hoàn cảnh cùng khổ một chổ dựa tinh thần
giúp họ có thể vượt qua mọi gian lao vất vả trước mắt .
Nội dung tác phẩm: Truyện ca ngợi lòng nhân ái tình mẫu tử và gửi gắm quan niệm về con người của Gorki. Qua đó, Gorki thể hiện thái độ trận trọng, tin yêu đối với con người và mong muốn họ vượt qua gian lao vất vả, vươn tới hạnh phúc.
Nội dung tác phẩm: Truyện ca ngợi lòng nhân ái tình mẫu tử và gửi gắm quan niệm về con người của Gorki. Qua đó, Gorki thể hiện thái độ trận trọng, tin yêu đối với con người và mong muốn họ vượt qua gian lao vất vả, vươn tới hạnh phúc.
II. ĐẶC SẮC TRUYỆN NGẮN CỦA GOR-KY TRONG TÁC PHẨM “MỘT
CON NGƯỜI RA ĐỜI”:
1.Bút
pháp lãng mạn kết hợp với nghệ thuật miêu tả:
-Gorki
đã phát huy sức mạnh thần kì của cây bút để tạo nên sự độc đáo, thành công cho tác phẩm.Đó là tài
năng điêu luyện trong việc sử dụng bút
pháp lãng mạn. Trong tác phẩm Một con người
ra đời được tác giả kể và viết lại thông qua cái nhìn của nhân vật Tôi,
mọi cái đẹp của cuộc sống, của con người và của thiên nhiên đều được nhìn qua
đôi mắt của nhân vật Tôi đó. Bút pháp
lãng mạn của Gorki
trước hết bắt đầu từ việc miêu tả cảnh sắc
của thiên nhiên. Đó là vẻ đẹp của mùa thu ở vùng giữa xukhum và Otesemtisry
trên bờ sông Kodor.Thiên nhiên Nga đẹp tuyệt vời, tráng lệ hiện ra như một bức tranh
thủy mặc với đầy đủ những đường nét, màu sắc sinh động, tươi sáng. Nó được miêu
tả theo con mắt nhìn của Tôi từ gần
ra xa, rồi từ thấp cho đến cao, phải trái lần lượt theo thứ tự tầng bậc.Những
chi tiết miêu tả giàu hình ảnh, tinh tế như hiện lên trươc mắt bạn đọc. Đầu
tiên hình ảnh dòng sông Kodor quay cuồng trắng xóa của những bọt nước với những
chiếc lá trúc đào đã vàng úa, khi ẩn khi hiện trông như những con cá mương, rồi
những tảng đá cheo leo trên dòng nước, đến những cây dẻ nhuộm màu vàng rực,trên
đỉnh núi treo lơ lửng những đám mây, bóng mây nhẹ nhàng triền đi trên các đỉnh
núi. Rồi nhẹ nhàng xen vào đó màu xám
lam của những con nhạn đang từ phương bắc xa xôi đến đây… Một bức tranh thiên
nhiên không chỉ có màu sắc, có hình ảnh mà nó còn tươi vui hơn, sống động hơn bởi
sự góp nhặt, tô điểm vào bức trang ấy những
âm thanh rộn ràng: đó là tiếng chảy rì rầm của tiếng sóng biển,tiếng xô nhau của
những bọt nước trên dòng sông Kodo, rồi tiếng kêu của chim âu, chim cốc, chim
gõ kiến. Không dừng lại đơn thuần với những hình ảnh, màu sắc, âm thanh mà bức
tranh còn thoảng phát cả hương vị, hương vị ngọt ngào, ngây ngất đắm say của một
thứ mật say đã từng suýt gây tai họa cho cả một đoàn quân của Poompe vĩ đại,
chính là hương thơm của loại mật ong đặc biệt, “ong đã làm ra chất mật ấy bằng nhụy
hoa nguyệt quế và hoa đỗ quyên”. Nhân vật tôi nhìn bức tranh thu bằng tất cả
tâm hồn của mình hay chính hơi thở của Gorki thở vào trong đó làm cho bức tranh
càng trở nên có hồn hơn, sống động hơn, và đẹp tuyệt hơn, tình người đã làm cho
cảnh vật trở nên giàu sức sống, gần gũi thân mật với con người “những con chim
âu, chim cốc kia cũng biết “mắc cỡ mà kêu lên những tiếng hờn dỗi”, “mấy con
sơn tước láu lỉnh”, “bóng mây trườn đi”, “con ong nổi giận”, “những chiếc lá giống
như những bàn tay”…
Nhà văn đã vẽ ra một không gian thu
đa chiều, với hình ảnh thiên nhiên tuyệt mĩ, vẻ đẹp ấy nó không chỉ chân thực tự
nhiên mà theo nhân vật tôi nó còn mang trong mình những nét đẹp cổ điển “ cảnh
mùa thu ở Kapkaz giống như cảnh một thánh đường tráng lệ dựng lên do những bậc
đại thần, một ngôi đền bằng ngọc bích, ngọc thạch, học đã treo lên các sườn núi
những tấm thảm đẹp nhất của người Tuyecman dệt bằng lụa tại Xamarkand…”
Gorki
dùng bút pháp lãng mạn để phác họa khung cảnh thiên nhiên để giúp con người ta
nhân thấy được giữa cuộc sống con người và thiên nhiên luôn có mối quan hệ với
nhau, cuộc sống con người không phải lúc nào cũng tốt đẹp, hạnh phúc, có lúc ta
cũng thấy đau khổ, chán chường, tuyệt vọng nhưng tất cả không phải là mãi mãi,
con người có thế thay đổi được cuộc đời của mình chỉ cần có hi vọng, cố gắng sống,
vượt lên trên hoàn cảnh và ta nhận thấy rằng con người phải có niềm tin rằng
mình được sinh ra trên trái đất này là niềm hạnh phúc lớn lao, được thấy bao
nhiêu điều kì diệu, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trái đất là một diễm phúc. Trước
khung cảnh thiên nhiên lộng lẫy huyền bí đấy nhà văn không thể kìm nén được nổi
sự thán phục, yêu cuộc sống luôn hãnh diện tự hào khi được sống trên cuộc đời
này, và sống đúng như danh hiệu con người
“ cao cả thay cái chức làm người trên trái đất, được thấy bao nhiêu điều
kì diệu , trái tim được rung động một cách ngọt ngào mãnh liệt biết bao nhiêu
trong khi nín lặng chiêm ngưỡng cái đẹp tuyệt vời”.Con người nên hòa cuộc sống
của chính mình cùng với sự tồn tại của thiên nhiên đất trời.Gorki đã hướng con
người tới vẻ đẹp của thiên nhiên, vũ trụ của tạo hóa tồn tại bất diệt. Vẻ đẹp của
thiên nhiên phải thuộc về con người và bản thân mỗi con người phải luôn có ý thức
bảo vệ vẻ đẹp đáng quý đó.
Bút
pháp lãng mạn của nhà văn không chỉ để miêu tả thiên nhiên mà còn hướng tới việc
xây dựng nhân vật và đặc biệt hơn là khi nhà văn diễn tả niềm vui, niềm hạnh
phúc của người mẹ khi đứa trẻ ra đời. Niềm vui của bà mẹ ánh lên trong nụ cười và đôi mắt, khi mới sinh xong dù người
con đau đớn nhưng bà vẫn nở nụ cười, một
nụ cười rạng rỡ, nụ cười đẹp đẽ, chói lọi khiến cho nhân vật tôi gần như lóa mắt.
Đó là nụ cười mãn nguyện, tràn đầy yêu thương và hạnh phúc và có lẽ từ đầu tác phẩm đến giờ đây là
nụ cươi tươi đẹp nhất, giờ đây nó không chỉ là nụ cười giản đơn của một người mẹ
mà nó đã trở thành biểu tượng cho con người vĩ đại đấng tối cao sáng tạo ra con
người.
Cùng
niềm vui, niềm sung sướng ánh lên trong
nụ cười của người mẹ là đôi mắt thần thánh , đôi mắt đẹp vô cùng “ chị
khẽ kêu lên một tiếng, im bặt, rồi lại mở mắt ra, đôi mắt đẹp vô cùng, đôi mắt
thần thánh của người sản phụ. Xanh biếc, đôi mắt ấy nhìn lên bầu trời xanh biếc,
trong đôi mắt bừng lên và hoà tan một nụ cười hoan hỉ biết ơn”. Đôi mắt của người
mẹ xanh biếc là một màu mắt rất đặc trưng của người dân Oren, nhưng nhà văn nói
đến màu xanh biếc ấy không chỉ nói màu mắt của người mẹ hay của người dân Oren
mà xa xôi hơn màu xanh ấy hắt lên từ ngọn lửa tình yêu, hạnh phúc, tình thương
đang cháy trong tâm hồn mẹ. Niềm vui của người mẹ khi đứa con ra đời,niềm vui
khi được thực hiện thiên chức của người mẹ mà bao phụ nữ khát mong còn lan tỏa
ra cả thiên nhiên xung quanh. Tất cả mọi vật đều như hoan hỉ tươi vui chào đón
một thiên thần nhỏ bé ra đời, bầu trời xanh biếc, sóng biển vỗ rì rào, lá thu
vàng rực và mặt trời chói lọi. Thiên nhiên càng tráng lệ bao nhiêu thì lại vẻ đẹp
con người lại càng trở nên kì vĩ bấy nhiêu. Mẹ là Đấng Sáng Tạo và hình ảnh của
đứa trẻ kia chính ra sản phẩm của sự sáng tạo. Câu chuyện như một bài ca ca ngợi
sự vĩ đại của con người. Nếu như trên nhà văn hướng con người đến cái đẹp của tạo
hóa thì giờ đây ông lại hướng tới cái đẹp của tình thương, tình máu mủ, đến cái
đẹp của con người. Chất lãng mạn của nhà văn dẫn dắt ta đến những cái đẹp nhất,
thánh thiện và vĩ đại nhất.
2.Bút pháp
hiện thực:
Những dòng văn
miêu tả thiên nhiên tuyệt vời như vậy
cũng chính là dụng ý của nhà văn xây dựng một không gian hoành tráng mĩ lệ để
làm nền cho một hiện thực nghiệt ngã đang diễn ra trên đất nước Nga. Thiên
nhiên mùa thu vùng kapakz càng tươi đẹp, huyền bí bao nhiêu thì con người nước
Nga lại đau khổ, bần cùng bấy nhiêu.Con người Nga vào những năm 1892 bị nạn đói tàn phá những con
người khốn khổ phải rời bỏ quê hương xứ sở thân yêu của mình để tìm đến những
vùng đất mới, lang thang phiêu bạt khắp đất nước Nga để kiếm kế sinh nhai nuôi
sống cái thân bé nhỏ, đau thương của mình, những con người kiệt quệ khổ sở mà
theo nhân vật tôi nhìn thấy họ “ những con người đói ăn trước đi đắp đường ở
Xukhum bây giờ đang kéo nhau đến Otsemtsiry để xin việc”. Đây cũng chính là một
biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong truyện ngắn của Gorki.Việc vận dụng thủ pháp
tương phản đối lập giữa thiên nhiên và cuộc sống xã hội Nga đã đem đến cho câu
truyện một không gian nghệ thuật độc đáo đăc sắc vừa hiện thực lại vừa lãng mạn bay bổng. Chính nghệ thuật tương phản đối
lập ấy là cái phông nề cho một hiện tượng đặc biệt xảy ra “ một con người ra đời”.
Để
làm rõ quá trình “Một con người ra đời’’ nhà văn đã sử dụng thành công bút pháp
hiện thực với cách miêu tả chi
tiết chân thực. Hoàn cảnh của chị ta khắc khổ,éo le, nghiệt ngã và bất hạnh,
nhà nghèo chồng chết chị phải một mình lặn lội, lang thang tới vùng đất khác để
kiếm sống.Nhà văn đã tập trung bút lực miêu tả một cách rõ nét, chi tiết, cụ thể,
cặn kẽ “ lần lượt không bỏ sót một điều gì trong toàn bộ quá trình sinh nở của
một người mẹ đau khổ: từ lúc đau đẻ, trở dạ, cắt rốn, chờ nhau”- ( Nguyễn Hải
Hà). Gorki
đã miêu tả hiện thực trần trụi, hiện thực nhất về sự đau đớn của người mẹ, cả về
nỗi đau thể xác
lẫn nỗi đau tinh thần.
Trước tiên về nỗi
đau thể xác như đã nói ở trên nhà văn miêu tả khá công phu tỉ mỉ một cách sinh
động từ khi người mẹ chuyển dạ đến khi đứa bé đỏ hỏn ra đời với nhiều biểu hiện,
trạng thái, ông miêu tả từ ngoại hình cho đến tâm lí của nhân vật.Nỗi đau quằn
quại, vật vã của người mẹ được ví như miếng vỏ bạch dương hơ qua lửa, tất cả đều
biến sắc, biến dạng. Trong cơn đau miệng của người mẹ như “bè ra”, “méo xệch”,
khuôn mặt đỏ bầm căng bự lên, biến dạng trông không còn ra mặt người nữa, “đôi
môi tím bầm mím chặt lại, bọt sùi hai bên mép”, để đứa bé ra đời nỗi đau mà bà
mẹ phải trải qua càng tăng thêm gấp bội, bà không còn đủ sức mà kêu gào, mà
cũng không còn kiềm giữ được nữa bà mỏi mệt và nó được mô tả khi bà chỉ còn thốt
lên những tiếng rên khò khè, những tiếng thở dữ dội khác thường,nào tiếng rống
tiếng gầm như một con thú dữ. Và hơn tất cả nỗi đau được thể hiện đặc biệt qua
đôi mắt của người mẹ. Đôi mắt ấy không còn trong xanh, hiền hòa nữa mà thay vào
đó thì mắt bà khi trợn ngược, khi lại lồi lên như muốn nổ tung, có lúc lại dại
khờ chạy đầy những tia máu, rồi cũng cùng đôi mắt ấy sóng sánh những giọt nước
mắt, tuôn ra những giọt nước mắt của nỗi đau vô cùng. Tất cả nhưng chi tiết hiện
thực đó như làm hiện ra trước mắt người đọc một nỗi đau như tan xương xẻ thịt,
một nỗi đau đớn đến tột cùng của người mẹ.
Khi người con ra
đời sự đau đớn về thể xác dàn mất đi nhưng người mẹ lại xuất hiện thêm một nỗi
đau khác đó là nỗi đau về tinh thần, Xã hội Nga lúc đó bây giờ đang giao thời đứng
trước cái mới và cái cũ, con người không biết phải lựa chọ như thế nào, cuộc
sông Nga đang đầy những khó khăn,đến bản thân người mẹ con phải phiêu bạt đến
nơi khác để nuôi sống mình giờ có thêm đứa con nhỏ, rồi số phận của hai mẹ con
sẽ ra sao, học sẽ đi đâu và về đâu, tương lai trước mắt của họ luôn xa vời và mờ
mịt họ chỉ còn một cách là luôn tin vào đức tối cao, tin và cha chúa.
Dụng ý nghệ thuật của tác giả lần
lượt lột tả các giai đoạn của quá trình sinh nở làm nổi bật cái đau đớn tột
cùng của người mẹ qua đó thể hiện nhiều ý nghĩa khác nhau: để thực hiện thiên
chức vẻ vang của mình, người phụ nữ đã trở thành người anh hùng, khẳng định cái khó khăn
gian khổ trong sự sáng tạo đặc biệt của con người – của người phụ nữ: sáng tạo
ra con người.
3.Nhân vật
“Tôi” trong truyện ngắn “Một con người ra đời”:
Trong truyện tác giả, hay cũng chính là nhân vật chàng trai trẻ xưng tôi
để kể lại câu chuyện. Điều này tạo nên sự tin tưởng và tính chân thực cho câu
chuyện, người đọc, người nghe như tận mắt chứng kiến được cả câu chuyện.điều
này cũng giúp cho độc giả dễ dàng đồng cảm với nhân vật người phụ nữ và nhân
vật tôi.
Nhân
vật”tôi” trong tác phẩm hiện lên là một chàng thanh niên trẻ tuổi với những nét
tính cách đẹp, đáng trân trọng như tốt bụng, tháo vát, hóm hỉnh và sẵn sàng
giúp đỡ người khác. Thực sự, việc đỡ đẻ là một công việc vô cùng khó khăn, vất
vả và đòi hỏi kinh nghiệm và một sự chịu khó,thông cảm rất lớn. Tuy nhiên, lúc
này chàng thanh niên 24 tuổi chưa lấy vợ, đặc biệt là chưa hề một lần làm cái
công việc này lại có thể cùng người phụ nữ kia “vượt cạn” một cách an toàn. Nếu
không phải xuất phát từ bản chất tốt đẹp trong nhân cách ắt hẳn con người này
không thể nào làm được chuyện khó khăn như thế. Chỉ nghe một tiếng rên khe khẽ
anh đã thấy “xao động”, thân thiết, “ruột rà”. Mặc cho người đàn bà xua đuổi,
chửi bới; vượt qua sự ngượng nghịu, luống cuống, anh “xông” vào đỡ đẻ chỉ vì
“thương chị quá chừng”, cho dù hiểu biết của chàng trai về “cái khoản này” có
được là bao.
Thực sự
nhân vật”tôi” là một chàng trai tốt bụng và vô cùng hóm hỉnh, anh ta hiểu rõ
tại sao người phụ nữ lại xua đuổi, chửi bới anh ta như vậy nên anh ta không
những tiếp tục giúp đỡ mà còn giúp chị ta thoải mái tinh thần hơn. Thử hỏi nếu
trong trường hợp này không phải là chàng trai trẻ mà là một người khác liệu
rằng họ có sẵn sàng giúp đỡ chị ta sinh con? Chính những hành động đó làm tôn
vinh lên nhân vật “tôi” với những nét tính cách tốt đẹp đáng trân trọng.
Và khi
đã bế trên tay một con người, mắt anh nhoà lệ, rồi nhìn nó mà cười lớn “Rất
mừng được gặp chú bé”. Niềm hân hoan đến trào nước mắt của chàng trai khi chào
đón một con người cũng là âm hưởng chủ đạo mà Măcxim Gorki muốn tấu lên trong
“bản trường ca” về con người này : “Cao cả thay cái chức vị làm người trên trái
đất”.
Nhân vật “tôi” đã cùng người đàn bà trải qua
những giây phút vô cùng khó khăn và đau đớn nhưng cũng rất thiêng liêng của
người phụ nữ. Chính vì thế anh ta có những chiêm nghiệm rất sâu sắc về con người. Anh ta vui mừng, hạnh phúc vì một con
người ra đời, một sinh linh bé bỏng đã khẳng định sự có mặt trên thế gian. Có
thể nói anh ta có một tâm hồn rất mực cao đẹp, biết cảm thông và chia sẻ voeis
nỗi đau cũng như niềm vui của đồng loại.
Đứa bé ra đời anh ta vui mừng say mê đến độ: Mải mê ngắm chú bé đỏ hỏn mà chàng trai “quên khuấy đi những việc còn phải làm” đến mức người mẹ phải giục “Cắt đi...Lấy dao...mà cắt” nhưng nụ cười rạng rỡ, đôi mắt ánh lên niềm vui khôn tả xiết của người mẹ thì anh “thấy rất rõ”. Anh thấy “ngọn lửa xanh biếc” trong đôi mắt sâu thẳm, “đôi mắt thần thánh” của người sản phụ. Nụ cười đẹp đẽ, chói lọi của chị làm anh loá mắt. Có ý kiến cho rằng: nhà văn đã đem hết tình thương và vốn từ ngữ giàu có của mình để ca ngợi niềm vui sướng hạnh phúc của người mẹ trẻ lần đầu tiên sinh nở được một đứa con yêu quý. Niềm vui ấy không chỉ lây lan sang chàng trai khiến anh không dưới 7 lần phải nhắc đi nhắc lại vẻ đẹp của đôi mắt và nụ cười người sản phụ khi vừa trải qua một cuộc vượt cạn đầy gian khó và đã “mẹ tròn con vuông”. Nếu không phải là người biết cảm thông chia sẻ ắt hẳn chàng trai trẻ sẽ không thể thấu hiểu và cảm nhận niềm hạnh phúc vô bờ đó của bà mẹ. Anh ta phát hiện ra và đồng điệu cùng niềm vui trong ánh mắt đẹp tuyệt vời ấy. Nhân vật”tôi” không những có lòng nhân ái sâu sắc mà anh ta còn có một tâm hồn nhạy cảm và vô cùng tinh tế.
Đứa bé ra đời anh ta vui mừng say mê đến độ: Mải mê ngắm chú bé đỏ hỏn mà chàng trai “quên khuấy đi những việc còn phải làm” đến mức người mẹ phải giục “Cắt đi...Lấy dao...mà cắt” nhưng nụ cười rạng rỡ, đôi mắt ánh lên niềm vui khôn tả xiết của người mẹ thì anh “thấy rất rõ”. Anh thấy “ngọn lửa xanh biếc” trong đôi mắt sâu thẳm, “đôi mắt thần thánh” của người sản phụ. Nụ cười đẹp đẽ, chói lọi của chị làm anh loá mắt. Có ý kiến cho rằng: nhà văn đã đem hết tình thương và vốn từ ngữ giàu có của mình để ca ngợi niềm vui sướng hạnh phúc của người mẹ trẻ lần đầu tiên sinh nở được một đứa con yêu quý. Niềm vui ấy không chỉ lây lan sang chàng trai khiến anh không dưới 7 lần phải nhắc đi nhắc lại vẻ đẹp của đôi mắt và nụ cười người sản phụ khi vừa trải qua một cuộc vượt cạn đầy gian khó và đã “mẹ tròn con vuông”. Nếu không phải là người biết cảm thông chia sẻ ắt hẳn chàng trai trẻ sẽ không thể thấu hiểu và cảm nhận niềm hạnh phúc vô bờ đó của bà mẹ. Anh ta phát hiện ra và đồng điệu cùng niềm vui trong ánh mắt đẹp tuyệt vời ấy. Nhân vật”tôi” không những có lòng nhân ái sâu sắc mà anh ta còn có một tâm hồn nhạy cảm và vô cùng tinh tế.
Niềm vui ấy còn lan toả vào cả thiên nhiên
xung quanh: bầu trời xanh biếc, lá thu vàng rực, biển vỗ ì ầm, sóng lao xao,
mặt trời rọi nắng chói lọi. Phải chăng thiên nhiên cũng mừng vui chào đón sự ra
đời của đứa trẻ, chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao với người mẹ. Không phải ngẫu
nhiên mà câu chuyện một con người ra đời được đặt trên phông nền là bức tranh
thiên nhiên Nga tráng lệ, kì vĩ.
Lòng trân trọng, tin yêu vô bờ bến của Gorki đối với con người là không thể đo đếm. Vì thế, ông đã nâng việc sinh nở tự nhiên, bình thường thành Sự sáng tạo thiêng liêng, người mẹ thành Tạo hoá và đứa bé sơ sinh – công trình của Tạo hóa - một con người. Ý tưởng ấy giúp ta gợi nhớ những lời lẽ, vần thơ cao đẹp mà nhân loại dành cho người mẹ: Người mẹ chính là Đấng sáng tạo ra cả anh hùng và nhà thơ, hay như “Không có mặt trời hoa hồng không nở. Không có phụ nữ không có tình yêu. Không có tình yêu không có hạnh phúc. Không có người mẹ không có anh hùng”(Klapin). Bernard Shaw cũng nói rằng: “Thế giới không có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ”.
Lòng trân trọng, tin yêu vô bờ bến của Gorki đối với con người là không thể đo đếm. Vì thế, ông đã nâng việc sinh nở tự nhiên, bình thường thành Sự sáng tạo thiêng liêng, người mẹ thành Tạo hoá và đứa bé sơ sinh – công trình của Tạo hóa - một con người. Ý tưởng ấy giúp ta gợi nhớ những lời lẽ, vần thơ cao đẹp mà nhân loại dành cho người mẹ: Người mẹ chính là Đấng sáng tạo ra cả anh hùng và nhà thơ, hay như “Không có mặt trời hoa hồng không nở. Không có phụ nữ không có tình yêu. Không có tình yêu không có hạnh phúc. Không có người mẹ không có anh hùng”(Klapin). Bernard Shaw cũng nói rằng: “Thế giới không có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ”.
=> Kết luận: Quả thực, qua lời kể của nhân vật “tôi” trong
tác phẩm, với ngòi bút kể chuyện độc đáo của Gorky thì con người ra đời đã trở
thành sự sáng tạo thiêng liêng. Thiên truyện như một bài ca với âm hưởng ngợi
ca sự vĩ đại của đấng sinh thành. Qua đó, Gorky cũng gửi gắm suy nghĩ của mình
về một vấn đề bức xúc của nhân loại muôn đời: con người và số phận của nó trong
tương lai. Ngòi bút giàu tính nhân đạo thể hiện sự cảm thông, thương yêu, trân
trọng và tin tưởng mãnh liệt ở con người.
4. Quan niệm về con người của
M.Gorky qua “Một Con Người ra đời”.
-Những con người “nhỏ bé” có số phận bất hạnh, khổ cực trong xã hội rối
ren với chiến tranh và nạn đói.
-Viết về con người nhỏ bé trong văn học
không phải Macxim Gorki mới là người đầu tiên. Trong văn học truyền thống
Puskin là người khơi đầu với “Người trưởng trạm” tiếp đó là Gogon với “Chiếc áo
khoác”, Dotoiepxki với “Những kẻ tủi nhục” Sờ - khốp với “Người trong bao”
“Vanka”. Macxim Gorki đã tiếp nối truyền thống đó với “một con người ra
đời”.
-Cơ sở của truyện dựa trên sự việc có thật xảy ra
với chính tác giả vào cuối mùa hè năm 1892 - một năm đói kém – khi ông đang làm
việc tại công trường Kapkaz. Từ đó cho thấy số phận bất hạnh, bần cùng của người dân Nga và sự đồng
cảm của tác giả với chính số phận của nhân vật, của nhà văn và nhân dân Nga lúc
đó.
- Những con người ấy luôn phải vượt lên trên số phận, vượt lên khó
khăn đói khổ để hướng đến một cuộc sống mới hy vọng với nhiều điều tốt đẹp sẽ đến.
+ Để thể hiện nỗi đau sinh đẻ của người mẹ,
tác giả đã tập trung miêu tả cơn đau “đôi môi tím bầm”, “tiếng thở dữ dội”, tiếng
gầm gừ”…Và đến khi đứa con ra đời là niềm vui niềm hạnh phúc của người mẹ, lúc
này như mọi đau khổ mắc dù đang hiện hữu nhưng mọi sự đau khổ ấy đã được xóa
tan khi nghe tiếng khóc chào đời của con.
+ Mặc dù người mẹ đang trong hoàn cảnh khổ cực,
đang đi tha hương, đứa con sinh ra khi không có người than bên cạnh nhưng những
người xa lạ bên cạnh với lòng tốt của mình họ đã giúp đỡ người mẹ. Đứa bé ra đời
là hy vọng cho một tương lai mới một cuộc sống mới.
- Quan điểm nhân văn, nhân đạo sâu sắc, đó là niềm
tin vào con người, tình yêu đất nước Nga, biết trân trọng giá trị của con người.
+ Macxim Gorki là nhà văn trưởng thành
từ trong lao động, từ cuộc đời nghèo khổ. Trường học lớn nhất của ông chính là
cuộc đời – với ông đó mới là trường học chân chính nhất. Macxim Gorki đã phải
làm đủ mọi nghề để kiếm sống và tồn tại. Bàn chân ông đã từng đi đến mọi nới
trên đất nước Nga tiếp xúc với đủ mọi hạng người mà đặc biệt là những người
nghèo khổ. Vì thế nhà văn luôn thấu hiểu và đặc biệt cảm thông sâu sắc với tầng
lớp nhân dân lao động. Nhà văn luôn dành cho họ niềm ưu ái, niềm đồng cảm như
những người cùng cảnh ngộ.
+ Câu chuyện kể về một người mẹ, trên
đường đi kiếm việc làm (trước đó đi đắp đường ở Xukhum nay đến Otsemtsiry tìm
việc) nhờ có “tôi” giúp đỡ đã sinh hạ “mẹ tròn con vuông” ra một “công dân
Oren”. Đó là câu chuyện về “một đứa trẻ ra đời” hay “Một hài nhi chào đời”.
Nhưng đối với Macxim Gorki thì không phải vậy, mà phải là “Một con người ra đời”.
Đối với nhà văn, hài nhi kia cũng là Một con người theo nghĩa cao cả đích thực
của hai chữ CON NGƯỜI viết hoa. Tên truyện cũng phần nào hé mở tư tưởng tác phẩm.
Các chi tiết trong câu chuyện đều là những sự khác thường nhưng đều nhằm mục
đích nổi bật tư tưởng cao đẹp về con người.
+ Trong tác phẩm ông không chỉ nhìn thấy cái khốn khổ
của họ, đồng cảm và thương xót họ mà nhà văn
còn đồng cảm với những cuộc đời khốn khổ, tăm tối ấy, bằng lòng khi cái đói miếng
ăn đè nặng lên, họ bất chấp mọi cách để sống, để tồn tại
thì còn gì trong tâm hồn ấy nữa. Tất cả chỉ còn là sự lăn xả vào miếng ăn, ý thức
nhân phẩm ý thức về cuộc sống đã hoàn toàn lụi tắt trong họ.
+ Việc tác giả miêu tả chi tiết “không bỏ sót một điều
gì trong toàn bộ quá trình sinh nở của người mẹ: đau đẻ, trở dạ, cắt rốn, chờ nhau”( Nguyễn Hải Hà) của người mẹ cho đến khi đứa bé chào đời cho thấy thái
độ tôn trọng của tác giả với con người, ông trân trọng giá trị của con người
coi đó là một điều vô cùng thiêng liêng và cao đẹp, là món quà mà thượng đế ban
cho thế gian.
+ Đứa bé ra đời
như một công trình của tạo hóa, mang theo bao khát vọng và mong ước. Đứa
con của một người mẹ Nga bình thường đã được đón nhận bằng tất cả niềm hân hoan
của một tâm hồn luôn biết trân trọng những giá trị của con người.
- Băn khoăn về con người và số phận của nó trong tương lai
+ Trước những băn khoăn của người mẹ: “Chẳng biết đời
nó sẽ ra sao? Anh đã giúp tôi thật cảm ơn anh…Còn điều đó có tốt lành cho nó
hay không tôi cũng chẳng biết nữa”. Ông khảng định:”Người dân mới của đất nước
Nga, con người mà số phận chưa ai lường trước được”sẽ có thể xứng đáng với “chức phận cao cả. chức phận làm người trên mặt
đất”
+ Số phận không chỉ là lo âu, nhiều hơn đó chính là
tin tưởng. Nghe tiếng khóc “Ya! Ya!”, ông coi đó là tuyên ngôn là khảng định đầu
tiên cho sự có mặt của con người trên trái đất. Tiếng khóc chào đời của chú bé
Oren như khẳng định mạnh mẽ sự hiện hữucủa con người giữa thế gian. Cùng niềm
hân hoan về sự có mặtcủa chú bé là những suy nghĩ về sự tồn tại của con người,
trong một cuộc sống tồn đọng bao điều nghiệt ngã. Con người phải vượt lên số phận.
+ Tác giả cổ vũ con người: Phải tự đứng lên tự khảng
định mình, con người phải tự quyết định số phận của mình.
=> Người mẹ cũng như nhà văn đều băn khoăn về
tương lai của đứa trẻ khi hiện tại là bao chông gai, là lang thang, đói khổ.
Nhưng họ cùng có chung một mong ước về tương lai tốt đẹp cho chú bé, cho con
người, mong ước con mình, mong ước con người được sống khoẻ khoắn, sung sướng
trong tự do.Từ đó cho thấy giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm, tư tưởng của
M.Gorki: TẤT CẢ Ở TRONG CON NGƯỜI, TẤT CẢ VÌ CON NGƯỜI!
III. TỔNG KẾT:
Một
con người ra đời được xem là một trong những tác phẩm “trung tâm” trong
toàn bộ sáng tạo của nhà văn. Nó biểu hiện rực rỡ chủ nghĩa nhân đạo của Gorki:
cảm thông, yêu thương, trân trọng và tin tưởng mãnh liệt ở con người.
Về mặt nghệ thuật, truyện cũng thể hiện
khá rõ tài năng truyện ngắn bậc thầy của tác giả. Hai bút pháp hiện thực và
lãng mạn được vận dụng trong sự kết hợp nhuần nhuyễn. Các phương tiện nghệ thuật:
phong cảnh, lời nhân vật, chi tiết ngoại hình, lời trần thuật...được sử dụng
điêu luyện. Thủ pháp tương phản, đặc tả, nhấn mạnh...được phát huy tới hiệu xuất
tối đa của chúng.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1.Đỗ
Hải Phong (chủ biên), Hà Thị Hòa, Giáo
trình Văn học Nga, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015.
2.Hà
Thị Hòa, Văn học Nga trong nhà trường,
NXB Giáo dục, 2009.
4.Nhiều
tác giả, Lịch sử văn học Nga, NXB
Giáo dục, 2008.
5.Tuyển tập truyện ngắn Macxim Gorki, NXB
Văn học, 2012.
Bọc răng sứ ở Đà Lạt thì địa chỉ nào uy tín, đảm bảo chất lượng? Chi phí bọc răng sứ hiện nay ra sao? Quy trình bọc răng sứ như thế nào? Tất cả những băn khoăn liên quan đến kỹ thuật bọc răng sứ sẽ được giải đáp chi tiết >>>Bọc răng sứ có tốt không ?
Trả lờiXóa