Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

TINH THẦN NHÂN VĂN
 TRONG CHÀNG THƯƠNG NHÂN THÀNH VENICE
MỤC LỤC
I.                  KHÁI QUÁT CHUNG
1.     Tóm tắt tác giả, tác phẩm
2.     Tinh thần nhân văn
a.     Tinh thần nhân văn thời Phục hưng nói chung
b.     Tinh thần nhân văn trong văn học Anh thời Phục hưng
-         Bối cảnh lịch sử nước Anh thời Phục hưng
-         Tinh thần nhân văn trong VH Phục hưng Anh
II.               TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG NGƯỜI LÁI BUÔN THÀNH VENICE
v Khái quát chung về tinh thần nhân văn trong tác phẩm
1.     Cảm hứng ca ngợi
a.     Ca ngợi vẻ đẹp con người
b.     Ca ngợi khát vọng cao đẹp của con người
c.      Ca ngợi và khẳng đinh cuộc sống trần thế- nơi có những tình cảm cao đẹp đó ( so sánh với Boccasio) Nét mới trong tinh thần nhân văn của tác phẩm
2.     Cảm hứng phê phán
a.     Phê phán tầng lớp quý tộc
b.     Phê phán sự thống trị cảu xã hội đồng tiền- nét mới trong tinh thàn nhân văn (Shakespera là người mở đầu)
c.      Phê phán sự kì thị tôn giáo, chủng tộc
III.           TỔNG KẾT




I . KHÁI QUÁT CHUNG.
1.     Tác giả, tác phẩm.
a.     Tác giả:
-         Shakespeare (1564- 1616).
-         Sinh ra tại Stratford Upon Avon, một thị trấn của trung tâm nước Anh.
-         Cha ông là Jond shakespeare một người vốn theo nghề nông sau rời bỏ ruộng đồng lên thị trấn làm bao ta và nhờ làm ăn phát đạt ông được làm thị trưởng.
-         Mẹ là bà Mary Arden là con gái của một chủ trại giàu có hơn, theo đạo Thiên Chúa Catholic.
v Cuộc đời, sự nghiệp:
Cuộc đời của Shakespeare
Sự nghiệp sáng tác của William shakespeare
- Thuở nhỏ Shakespeare được theo học trường Gramar School và được tiếp xúc với các môn phổ thông cùng với tiếng Hi Lạp, La tinh và một số tác phẩm cổ đại của Hy Lạp, La Mã.





- Shakespeare sinh ra ở Avon cuộc sống của người dân nơi thị xã này khá tấp nập nhờ các buổi họp chợ, nhờ các đoàn kịch đến trình diễn các vở hát như Robin Hood. Bên ngoài thị xã là các cánh đồng, các khu rừng, ngoài ra gần thị xã còn có giòng sông Avon, là nơi có nhiều người câu cá, thả lưới.
- Cuộc sống gia đình túng quẫn Shakespeare bỏ học đi làm, ông làm giúp việc tại lò mổ sau đó chuyển sang nghề dạy học. Ông kết hôn vào năm 18 tuổi với cô vợ là Anne Hathaway, người hơn Shakespeare 8 tuổi, sinh được 3 đứa con và đứa con trai Hamet chết khi vừa trơn 11 tuổi.
-Năm 23 tuổi ông đến London làm ở rạp The Theater, đầu tiên ông làm chân giữ ngựa rồi soát vé về sau làm chân nhắc vở và đóng vai phụ… Trong thời gian này Shakespeare đã không ngừng học hỏi, ngoài tiếp Pháp, tiếng Anh… Shakespeare còn nghiên cứu cuốn sử biên niên của Anh, Ailen và Xcotlen ( Raphael Holinshed). Và ông bắt tay vào sự nghiệp sáng tác vào năm 1590.
- Từ năm 1592, William Shakespeare đã hoàn toàn dấn thân vào sinh hoạt kịch nghệ của thành phố London với vai trò của một diễn viên và của người có cổ phần trong công ty kịch nghệ "The Lord Chamberlain's Men" ( đoan kịch biểu diễn trong hoàng cung).
- Từ năm 1592 tới năm 1594, bệnh dịch đã khiến cho các rạp hát tại thành phố London phải đóng cửa nên William Shakespeare quay sang làm thơ.
- Trong các năm từ 1599 tới 1608, William Shakespeare đã hoạt động tích cực, đã viết ra nhiều hài kịch và hầu như tất cả bi kịch, do đó danh tiếng của ông đã vang lừng.
- Đây là điều kiện nền tảng cho việc sáng tác của Shakespeare sau này. Nó làm tác giả quen với thơ ái tình Ovit, Horat, kịch của Plot, chuyện những người con trứ danh của Ptulac, lịch sử nước Anh. Những điều này thấy rõ trong những sáng tác đầu tiên của ông như Henry VI phần II,III (1590), Richard III (1592)...

-William Shakespeare đã yêu mến thiên nhiên và đời sống nông thôn với chim muông, sâu bọ và các người dân quê hiền lành, nên về sau đã phản ánh những tình cảm này qua các bài thơ và các vở kịch.












- Ông sáng tác hài kịch, kịch lịch sử, bi- hài kịch, bi kịch. Những vở hài kịch tiêu biểu là: ầm ĩ vì chuyện không đâu, đêm thứ 12, giấc mộng đêm hè, người lái buon thành venice…bi-hài kịch có romeo và juliet. Bi kịch có Hamlet, othello, vua Lear, Macbeth…












- Một số tập thơ của Shakespeare: Venus và Adonis (1953), Cuộc Hiếp Dâm Nàng Lucrece (the Rape of Lucrece- 1954)


- Trong 20 năm cầm bút Shakespeare sáng tác được gần 40 vở kịch, 2 trường ca và 154 bài thơ.

-         Giai đoạn sáng tác của Shakespeare:


 



-          
-          
-          




-         Đặc điểm của các giai đoạn:
+ Giai đoạn sáng tác thứ nhất : là thời kỳ học nghề, vào tuổi từ 26 tới 30. Shakespeare đã dựa theo các hài kịch và bi kịch La Mã, đặc biệt là loại bi kịch của Seneca (Senecan tragedy) hay "bi kịch có máu" (tragedy of blood), đã bắt chước văn phong của các nhà viết kịch thời trước và đương thời, và có thể tác giả cũng cộng tác với Christopher Marlowe. Các vở kịch của giai đoạn này nhấn mạnh tới các biến cố hơn là diễn tả hình ảnh và nội tâm của các nhân vật.
+ Giai đoạn thứ hai: William Shakespeare nổi danh vì các vở kịch như "Romeo và Juliet", "Người lái buôn thành Venice" (the Merchant of Venice), và "Vua Henry IV", với vở hài kịch xuất sắc tên là "Giấc Mộng Đêm Hè" (A Midsummer Night 's Dream). Văn phong của William Shakespeare trưởng thành, hàm chứa sức mạnh và chứng tỏ thiên tài của tác giả do các vở kịch vui tươi, châm biếm các mối tình lãng mạn, với nhiều bài thơ mô tả xúc tích. Cảm hứng chủ đạo vẫn là yêu đời, yêu người, yêu đất nước, tự hào và say sưa về đất nước.
+ Giai đoạn 3:. Trong 8 năm, Shakespeare đã thăm dò các điều ác, và thế giới của kinh hãi được trình bày bằng các bi kịch lớn vì tác giả đã bi quan trước các tư tưởng tuyệt vọng của con người, trước các hoàn cảnh đau thương của xã hội.Tiêu biểu là vở lịch Hamlet (khoảng 1601), ootelo, vua lia… Ở đây tác giả lên án cái đen tối, phê phán mặt xấu xa, lên án tội ác, cường quyền, bạo lực, nêu bật lên sự khủng hoảng bế tắc của một xã hội, một thời đại.
+ Giai đoạn thứ 4: William Shakespeare dùng tới một thể văn mới                             đó là bi hài kịch (the tragicomedy) hay tình yêu lãng mạn bi thương (dramatic romance). "Bão Tố" (The Tempest)... Mâu thuẫn ở thời kì này không gay gắt , không gay gắt, quyết liệt, không gây ra đổ vỡ tan nát, chết chóc ở giai đoạn trước, kết thúc vui vẻ.

b.    Tác phẩm.
Tác phẩm “ người lái buôn thành Venice” ra đời trong hoàn cảnh văn học Phục Hưng Anh phát triển mạnh mẽ. Hài kịch Shakespeare phản ánh một cách sâu sắc thực tại của nước Anh trong quá trình chống lại cái ác, cái xấu, cái lạc hậu, lỗi thời. Với trí tuệ hơn người và là một cây bút sắc sảo, Shakespeare đã phản ánh cái xã hội mà bọn tư sản chỉ nghĩ đến tiền, tìm mọi cách để có càng nhiều càng thích cho dù phải dùng đến những thủ đoạn tàn ác, vô nhân đạo. Đồng thời Shakespeare cũng lên tiếng ca ngợi con người chân chính. Với “ người lái buôn thành venice” Shakespeare đã làm sống dậy cả một xã hội thời kì đầu tư bản với cả mặt tốt và mặt xấu của nó.
Vở kịch “ Người lái buôn thành Venice” có cốt truyện được mượn từ một truyện ngắn của nhà văn Ý Giovanni Fiortino mà ông từng được nghe kể. Skakespeare nhận thấy rằng ở bất cứ nơi đâu, đều có mặt bọn người vì đồng tiền sẵn sàng ăn sống nuốt tươi đồng loại của mình.Hơn nữa, chính tên chủ rạp Hoa Hồng đang tìm mọi cách cạnh tranh ráo riết với rạp kịch của Shakespeare bằng cách giở mọi thủ đoạn, cũng là nguyên mẫu của nhân vật Shylock độc ác, nham hiểm. Tên Shylock gian xảo trong câu chuyện là đại diện cho bộ mặt ghê tởm của những tên gian thương như thế.

Tóm tắt:
 Antonio - một thương nhân giàu có và nổi tiếng hào hiệp ở venice. Để giúp bạn làBassanio đến xứ Benmơn và cầu hon nàng poxia xinh đẹp. Antonio muốn giúp đỡ bạn nhưng không sẵn tiền vì các tàu chở hàng của anh đang lênh đênh trên biển cho nên anh đã phải đến vay tiền Shylock – một gã chuyên cho vay nặng lãi nổi tiếng là keo kiệt và tàn nhẫn với số tiên là 3000 đuyca. Shylock xưa nay vốn ghét Antonio vì theo hắn thì Antoniođã làm hắn thua thiệt rất nhiều, hơn nữa từng làm nhục hắn, nhổ nước bọt vào hắn, xúc phạm đến nòi giống của hắn. Hắn thuận cho Antonio vay với điều kiện: Antonio kí vào khế ước là nếu sau 3 tháng không trả được nợ thì sẽ xẻo 1 liver thịt bất kì trên người của Antoni.
     Poxia tuy yêu Bassanio nhưng phải thực hiện chúc thư của người cha để lại đó là người cầu hôn phải chọn đúng cái hòm có chứa bức chân dung của poxia mới được kết hôn cùng nàng. Hoàng tử Maroc chọn hòm băng vàng và hắn ta thấy hình ảnh một thi hài nhăn dúm, hung tợn. Thái tử Aragon, muốn chứng tỏ mình có đầu óc khác thường, nghĩ rằng nên chọn cái tráp bằng bạc: một bức biếm họa dị hợm như gởi gã lời chào tinh quái.Khi Bassanio chọn, anh chọn hòm bằng gỗ và đã cưới được poxia.
     Hạn nợ đã đến nhưng Antonio không có tiền trả vì tàu của anh đã bị chìm ở biển. Shylock kiện ra tòa đòi phải xẻo một lirve thịt của Antonio. Bassanio muốn trả tiền cho shylock nhưng hắn ta không đồng ý ... Được anh họ là quan to viết thư ủy nhiệm, Poxia cải trang thành luật sư còn nàng Naria cải trang thành viên thư kí. Hai người đã được thống lĩnh mời ngồi vào ghế quan tòa. Tại đây thì poxia đã khuyên bảo Shylock nên có lòng khoan dung và bị hắn bác bỏ. Tòa cho Shylock thi hành bản cam kết của đôi bên, Shylock thực hiện đúng khế ước là cắt đúng 1 lirve thịt không thừa không thiếu và không được chảy một giọt máu nào của Antonio. Shylock ngớ ra trước điều kiện đó hắn đành từ bỏ ý định của mình. Shylock bị thua kiện và bị thu hồi toàn bộ tài sản vì tội âm mưu hãm hại một công dân của venice.
Kết thúc phiên tòa, Bssanio mời Benmon để dự tiệc cưới. Trong tiệc mọi người mới vỡ lẽ là Poxia chính là vị quan tòa trẻ tuổi khôi ngô

2.     Tinh thần nhân văn.
a.     Tinh thần nhân văn thời Phục Hưng nói chung.
-         Thời đại Phục hưng là thời đại rực rỡ và vĩ đại với cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng do giai cấp tư sản lãnh đạo thắng lợi đánh dấu bước nhảy vọt con người trong quá trình tự giải phóng. Tư tưởng trung tâm của thời đại Phục hưng là tinh thần nhân văn. Đây là tinh thần cơ bản, yếu tố then chốt tạo ra các giá trị cho các tác phẩm văn học nghệ thuật thời kì này.
-         Tinh thần nhân văn được khởi phát ở Ý qua Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Anh. Nội dung chính của tinh thần nhân văn thời Phục hưng có thể được khái quát như sau:
+ Thế giới do tự nhiên sinh ra, không do chúa trời tạo nên.
+ Con người là sản phẩm của tự nhiên, chứ không phải do chúa Trời tạo ra từ “ mẫu đất” hay “ xương sườn cụt”.
+ Cuộc sống không phải là nơi đầy ải mà là nơi con người có thể xây dựng hạnh phúc dưới trần thế chứ không đợi ngày mai lên thiên đàng.
-         Có thể nói, tinh thần nhân văn thời kì Phục hưng được xem xét trên 2 phương diện như sau:
+  Con người: Con người trở thành chuẩn mực thành thước đo giá trị nhân bản, những gì phù hợp với con người, tôn vinh con người sẽ được đề cao. Sức mạnh chiến thắng của tinh thần nhân văn thời đại Phục hưng chính là ở chỗ bênh vực quyền sống con người, được làm người, phát huy mọi giá trị, khả năng của con người để bước tới tự do. Quan niệm con người là hiện thân của cái đẹp “ Kì diệu thay là con người. Vẻ đẹp con người hòa quyện vẻ đẹp thiên nhiên, tôn vinh lẫn nhau, làm đẹp cho nhau”
+ Cuộc sống: Quan niệm coi cuộc sống với niềm vui, hạnh phúc trần thế là đáng sống, có ý nghĩa nhất, con người phải sống lạc quan, yêu đời khác hẳn quan niệm coi “ cuộc đời là “ một thung lũng nước mắt”. Chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng là niềm lạc quan, niềm tin vào con người.

b.     Tinh thần nhân văn trong văn học Anh.
-         Bối cảnh lịch sử thời đại phục hưng Anh
Như Ănghen đã từng nhận xét, thời đại Phục Hưng là “bước ngoặt tiến bộ, vĩ đại nhất mà loài người mới trải qua từ trước cho đến giờ”. Đúng vậy, trải qua “Đêm trường Trung cổ” con người châu Âu bừng tỉnh khỏi cõi chết ấy và dấy lên phong trào học tập cổ đại, kỉ nguyên ấy được gọi là kỉ nguyên Phục hưng diễn ra rầm rộ khắp Tây Âu từ Italia, Pháp, Đức,.....
Là một trong những nước thực hiện phong trào Phục hưng, nhưng nước Anh muộn hơn các nước Tây Âu do bị “giam chân” trong hai thế kỉ XIV, XV với cuộc chiến tranh 100 năm giữa Anh và Pháp (1337-1453) khiến cho đất nước trở nên kiệt quệ và có sự chia rẽ sâu sắc. Tiếp sau đó là cuộc chiến tranh “Hai hoa hồng” (1455-1485) giữa hai tập đoàn phong kiến càng làm cho nước Anh trở nên khốn đốn, điêu tàn. Cuối cùng, dòng họ Tiudo lên nắm chính quyền, nước Anh mới bắt đầu ổn định và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội từ thế kỉ XV.
Từ thế kỉ XVI, Anh tiến lên chủ nghĩa tư bản và giành được nhiều thành công lớn, đuổi kịp và vượt qua cả những nước đi trước nó. Nhưng kéo theo đó là sự xuất hiện các công trường là hàng nghìn nông dân bị cướp ruộng đất, công ăn việc làm,...trở thành người lang thang và sau đó trở thành nguồn nhân công rẻ mạt cho tư bản. Do đó, ở Anh lúc này rất nhiều cuộc khởi nghĩa diễn ra, tuy nhiên cuối cùng lại chìm trong bể máu
Cùng với nông dân, thợ thủ công cũng lâm vào cảnh khốn khó, bị bóc lột sức lao động đến cùng kiệt, tiền công rẻ mạt, đói rách. Họ cũng là nạn nhân của chế độ xã hội ấy, bởi vậy trong các cuộc khởi nghĩa của nông dân luôn có sự hỗ trợ và liên kết với thợ thủ công.
Đến thời kì nữ hoàng Eelizabet, Anh đã trở thành một cường quốc lớn mạnh với sự kiện năm 1588 nhờ sự giúp đỡ của bão táp, hải quân Anh đã đánh tan hạm đội Acdama nên giành được chính quyền trên mặt biển. vì thế mà nước Anh giàu lên, Anh trở thành một nước tiên tiến vượt bậc. Đây được coi là “thời kì nước Anh vui vẻ” biến London-kinh đô của Anh, thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa thậm chí là một trung tâm văn minh của châu Âu. Nước Anh trở thành nước tiên tiến được mọi người ngưỡng mộ.
Tuy nhiên, trong lòng nước Anh lại có những biến động dữ dội của thời kì quá độ từ chế độ phong kiến lên chủ nghĩa tư bản vì vậy chất chứa mâu thuẫn khốc liệt của sự phân biệt giàu nghèo, quy luật cạnh tranh,... và sự áp bức, bóc lột trắng trợn nhân dân trong nước và các nước thuộc địa của Anh.
Về phương diện tôn giáo, đây là thời kì Anh thoát khỏi ách thống trị của giáo hội La Mã. Tuy nhiên, quá trình xây dựng quốc giáo cũng là một quá trình đấu tranh đổ máu. Ngay dưới triều đại Elizabet, các tín đồ theo cơ đốc giáo vẫn nhiều lần nổi dậy và các cuộc khởi nghĩa đó đều chìm trong bể máu.
Bối cảnh xã hội đó cũng là bối cảnh của văn học phục hưng Anh với những thành tựu nở rộ cả về thơ ca, văn xuôi, và nhất là kịch. Thơ ca có những đại biểu như Thomas Watt, Spencer,.. Văn xuôi cũng phát triển với cây bút tiểu thuyết đầu tiên của thời Phục hưng Anh là Jonh Lyly, Thomas Lodge,... Đặc biệt phát triển mạnh nhất là kịch với truyền thống lâu đời về sân khấu, đó là kịch dân gian có tính chất thần bí và tôn giáo. Đến thời Phục hưng nó bắt đầu nhường bước cho nội dung xã hội với những thay đổi. Một mặt văn học Anh thời phục hưng tiếp thu các thành tựu của các nền văn học khác, tiếp thu lí tưởng nhân văn, đề cao con người, phê phán phong kiến và nhà thờ. Mặt khác nó mang theo đặc trưng của dân tộc và lịch sử thể hiện qua sự đối kháng gay gắt của xã hội Anh thế kỉ XVI. Cùng với đó là sự tiếp thu truyền thống kịch vốn rất thịnh hành thời Trung cổ nhờ sự phát triển của các nghành in, các tác phẩm văn học của các nước khác, nhất là kịch cổ đại Hy Lạp-La Mã đã theo chân các thương gia, các nghệ nhân kiếm sống tràn vào nước Anh. Từ đó, tính chất truyền thống của sân khấu Hy-La kết hợp với các hình thức, thủ pháp biểu diễn mới lạ đã thổi vào kịch trường Anh một sức sống mới. Do đó mà có cả một phong trào đua nhau sáng tác kịch như Lơ-guy-y nhận định “đã hiện ra như một mớ bòng bong khó gỡ, đúng là một cánh rừng đủ loại kịch phẩm”. Với những cây bút xuất sắc như John Lyly, Robert Greene, Thomas Kit,.. và sau này là nhà viết kịch vĩ đại William Shakerpeare.
Tinh thần nhân văn trong văn học Phục hưng Anh:
-         Cũng như các nước Itailia, Pháp, Đức, Ý, nước Anh cũng tiếp thu tư tưởng tinh thần nhân văn nhưng chủ nghĩa nhân văn ở Anh phát triển chậm hơn so với các nước kia. Chính vì vậy, nó tạo điều kiện cho văn học Phục hưng Anh tiếp thu tinh hoa nền văn học đi trước và có sự phát triển vượt bậc hơn so với các nước khác. Một số tác giả tiêu biểu cho tinh thần nhân văn của văn học Phục hưng Anh: William Shakespeare, Chirstophen Marlowe…
-         Tinh thần nhân văn của văn học Phục hưng Anh cũng mang tính chất chung, nét chung như tinh thần nhân văn của văn học các nước khác trên lục địa châu Âu: Tinh thần chống chủ nghĩa giáo điều kinh viện trung cổ nhằm giải phóng trí tuệ con người, tinh thần khẳng định cuộc đời trần thế là đáng sống vui tươi nhất, sự đòi hỏi quyền tự do cá nhân, con người, niềm phấn khởi trước chân trời rộng mở..Tuy vậy, tinh thần nhân văn thời Phục hưng Anh cũng có những điểm khác biệt, phát triển hơn tinh thần nhân văn của văn học Phục hưng các nước khác ( do lịch sử chi phối):
+   Đây là thời kì nước Anh tiến hành tư bản chủ nghĩa mạnh mẽ vươn lên, phát triển rực rỡ. Chính trong xã hội tư bản này với sự tích lũy tư bản, quy luật cạnh tranh sự lên ngôi ghê gớm của đồng tiền làm biến đổi con người vê nhân phẩm và nhân tính. Bởi vậy, tinh thần nhân văn thời kì này còn là sự lên án mạnh mẽ mặt trái của xã hội đồng tiền, đồng tiền làm tha hóa con người , làm biến chất những tình cảm cao quý tốt đẹp của con người. Đồng tiền có sức mạnh chi phối xã hội khiến con người là nô lệ của nó.
+  Sự phân biệt chủng tộc ở Anh diễn ra khá gay gắt đặc biệt giữa người Do Thái. Bởi vậy, tinh thần nhân văn còn được thể hiện ở sự lên án sự phân biệt chủng tộc, màu da trong xã hội Anh, đòi quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

II.               TINH THẦN NHÂN VĂN TRONG CHÀNG LÁI BUÔN THÀNH VENICE.
v Khái quát chung về tinh thần nhân văn trong tác phẩm người lái buôn thành venice.
-         Tác phẩm là một trong những vở hài kịch hay và có giá trị của nước Anh. Tinh thần nhân văn thể hiện trong tác phẩm vừa có nét kế thừa vừa có nét phát triển hơn so với tinh thần nhân văn của các nước khác. Điểm mới của tinh thần nhân văn trong tác phẩm là ở sự ca ngợi và khẳng định cuộc sống nơi trần thế là hạnh phúc sung sướng nhất. Bởi cuộc sống trần thế ấy luôn hiện hữu tình cảm cao đẹp đáng trân trọng giữa con người với con người khác với quan niệm của Boccacsio thời trước cuộc sống trần thế đáng tốt đẹp bởi ở đó con người được thỏa mãn nhu cầu xác thịt nhục dục, bản năng của con người. Đặc biệt nét mới trong tinh thần nhân văn của tác phẩm còn là sự lên án mạnh mẽ đói với xã hội đồng tiền tư bản nước Anh “ đồng tiền là con đĩ của cả thế giới, là tay mối lái của tất cả mọi người và hết thảy các dân tộc.” Ngoài ra chính việc lên án tố cáo phân biệt chủng tộc tôn giáo màu da cũng là nét mới phát triển trong tinh thần nhân văn của Shakesper so với tinh thần nhân văn của một số tác giả khác.
-         Sự kế thùa và sáng tạo phát triển trong tác phẩm đã mang nét chung của tinh thần Phục Hưng trong văn học Anh nói chung và làm nên dấu ấn rất riêng của Shakespera trong nền văn học Anh. Tiếng cười của Shakespera là tiếng cười mang giá trị văn hóa, tiếng cười để cổ vũ xã hội đi lên, tiếng cười để tôn tạo con người.
1.     Cảm hứng ca ngợi
a.     Ca ngợi vẻ đẹp con người.
người lái buôn thành venice tác giả miêu tả vẻ đẹp của con người như vẻ đẹp ngoại hình, vẻ đẹp tâm hồn vẻ đẹp trí tuệ mà đại diện tiêu biểu là nàng Poxia
-         Vẻ đẹp ngoại hình:
Poxia là một cô gái xinh đẹp đức hạnh như chàng Bassanio đã ca ngợi “ Ở Bemom, nàng đẹp hơn cả cái tính đẹp nữa, mà nàng có đức hạnh tuyệt vời, tóc của nàng vàng chói ánh mặt trời rủ xuống hai bên thái dương như một bộ lông cừu vàng.” “ Mái tóc lộng lẫy của nàng buông từ thái dương xuống như một bãi biển Conconso mà vô số những chàng Giađông tìm đến để chinh phục nàng ấy”. Vẻ đẹp của Poxia được Basanio ca ngợi hết lời. Vẻ đẹp bên ngoài của nàng, mái tóc vàng óng của nàng gợi lên nét kiêu sa, quyến rũ khiến bao người muốn có trái tim của Poxia
-         Vẻ đẹp tâm hồn: Poxia xinh đẹp và giàu có nhưng vẻ đẹp bên ngoài chỉ để tô điểm thêm vẻ đẹp tâm hồn nàng chính vẻ đẹp bên trong mới làm nên một Poxia hoàn hảo. Bassanio đã phải thốt lên “ nàng đẹp hơn cả cái đẹp đó chính là đức hạnh của nàng...” và vẻ đẹp ấy được thể hiện qua:

+ Lòng hiếu thảo với người cha: Vâng lời cha nàng đã tổ chức cuộc kén chồng theo đúng di chúc của cha dù nàng không thích. Nàng đã nói với cô hầu gái “ ôi, kén chọn! Chị không được kén chọn người chị vừa ý, cũng không được quyền khước từ người mà chị không ưa”. Nàng yêu Basanio và muốn tự do lựa chọn người bạn đời của mình nhưng vì lòng hiếu thảo nàng phải làm theo lời cha “ ấy đấy, ý muốn của một đứa con gái còn sống phải phục tòng ý niệm của một người cha đã chết.” Qua đây ta thấy được sự kính nể, lòng hiếu thảo của Poxia đối với cha của mình.
+ Vẻ đẹp tâm hồn của Poxia còn được thể hiện qua tình yêu trong sáng, nồng nàn dành cho Bassanio: Sự lo lắng khi Basanio phải chọn 3 chiếc hộp vàng, bạc, chì “ em xin chàng đừng nên vội vã. Em thầm cảm thấy rằng em không muốn mất chàng.” Qua đó ta thấy một tình yêu mãnh liệt say đắm khát khao kết duyên của nàng với Bassanio “ như vậy tất cả em đều thuộc chàng”. Pooxxia nói với Bassanio “tuy rằng tiêng đối với mình thì chẳng bao giờ em cầu mong quá vọng, ước ao được mười phần ưu việt hơn thực chất nhưng vì chàng em chỉ muốn hai chục lầm làm tăng gấp ba những tài đức của em, được đẹp hơn gấp nghìn lần, và như vậy chỉ để trở thành quý giá hơn đối với mắt chàng, em chỉ mong muốn vượt tất cả mọi giá về tài đức, về dung nhan, về của cải, về tình bằng hữu.” Đó là tình yêu chân thành, nàng không suy nghĩ cho bản thân mà tất cả những gì nàng mong muốn đều là ước mong dành cho Bassanio.
-         Vẻ đẹp trí tuệ: Không chỉ là đẹp vẻ bề ngoài, không chỉ có đức hạnh mà Poxia còn có một trí tuệ thông minh, sắc sảo.
+Nàng thông minh sắc sảo đã cải trang thành nam nhi dưới danh nghĩa một tiến sĩ luật khoa để ra tòa giúp Antonio cãi thắng vụ kiện của Shylock.
+ Nàng khéo léo khuyên Shylock nên nhận tiền của Antonio và từ bỏ ý định róc thịt Antonio.  Poxia cũng dựa vào nội dung của tờ khế ước và luật pháp của Venice để làm cho âm mưu của tên Do Thái thất bại hoàn toàn. Nàng còn dùng pháp luật của Venice để buộc tội Shylock. Sự thông minh ấy giúp cứu được người bạn thân của chồng thoát nạn và làm cho tên Do Thái Shylock thua tâm phục khẩu phục.
+ Khi nàng thử lòng Bassanio, Poxia đề nghị chàng tặng cho nàng chiếc nhẫn đính hôn của hai người để làm món quà đền ơn. Lúc đầu Basanio không đồng ý, nó không làm cho Poxia giận mà trái lại nó giúp nàng biết àng đã đúng khi lựa chọn Bassanio là chồng.
ð Poxia là một người phụ nữ thông minh biết nhìn nhận, suy xét mọi cách thấu đáo. Nàng là con người dung hòa được lí trí và tình cảm cá nhân. Và những điều đó đã giúp nàng có được hạnh phúc.
b.     Ca ngợi tình bạn: Tình bạn của các nhân vật: Antonio, Bassanio, Solanio
Trong tác phẩm của mình Shakerpeare không chỉ ca ngợi những khát vọng, tình cảm cao đẹp của con người mà cùng với đó, tình bạn cao quý cũng được Shakerpeare hết lòng ca ngợi.Đó là tình bạn giữa Antonio, Bassanio, Solanio Graxyanô, Xalêriô. Tất cả họ đều là bạn tốt của nhau, luôn động viên, san sẻ cùng nhau trong cuộc sống. Trong tác phẩm họ được miêu tả tử tế, phóng khoáng, hài hước bằng niềm yêu mến mà tác giả dành cho họ.

Ngay ở đầu tác phẩm, trước nỗi buồn của Antonio là những lời thăm hỏi động viên, thấu hiểu và đồng cảm của Solanio dành cho bạn mình. Đó vừa là sự quan tâm chia sẻ của những người bạn chân thành dành cho nhau không chút vụ lợi gì cả. Không chỉ vậy, Salanio còn không ít những lời ca ngợi người bạn của mình với sự chân thành và niềm tự hào nhất có thể. Và khi bạn vì giúp đỡ người bạn khác của mình là Bassanio phải ra tòa, các bạn của anh cũng không ít lần bênh vực, lo lắng và tìm cách giúp đỡ  bạn.
Đặc biệt nhất đó là tình bạn giữa Antonio và Bassanio-một tình bạn chân thành và cao thượng vô cùng được Shakerpeare hết lòng ca ngợi.
Là anh em họ và cũng là bạn của nhau, hai người thân thiết với nhau đến mức khi Bassanio khánh kiệt tài sản và phải vay nợ như chúa chổm nhưng lại đang khát khao có một khoản tiền lớn để đến Belmon cưới Portia một cô gái xinh đẹp và giàu có làm vợ. Chàng đã giúp đỡ bạn mình hết sức qua câu nói “Bạn hãy tin chắc rằng túi tiền của tôi, bản thân tôi, tất cả khả năng của tôi đến tột độ, đều sẵn sàng để bạn tùy tiện sử dụng khi cần đến”. Thậm chí, để có được số tiền cho Bassanio, Antonio đã phải đi vay Sailoc người Do Thái, một kẻ nổi tiếng là độc ác và keo kiệt. Đây cũng là một việc làm mà Antonio không hề muốn chút nào, nhưng vì bạn, chàng sẵn sàng làm “Ông Sailôc, mặc dầu tôi không bao giờ cho vay lãi và cũng không bao giờ đi vay lãi, nhưng để đáp ứng nhu cầu cấp bách của bạn tôi, tôi sẽ phá cái lệ đó.” Không chỉ vậy, mà bất chấp nguy hiểm, bất chấp cả đề nghị điên rồ của Sailoc là “xẻo một khoảnh thịt chỉ bằng một livre” trên phần nào cơ thể của chàng mà hắn thích. Trước thử thách như vậy, Antonio vẫn không hề hoảng sợ, nao núng mà sẵn sàng kí vào giấy nợ để giúp Bassanio. Tình bạn đó của chàng thật cao quý và được Salanio ca ngợi rằng “Trên đời, không có người nào tốt hơn bác ấy. Tôi đã trông thấy Antonio và Bassanio chia tay nhau. Bassanio bảo bác ấy rằng anh sẽ cố làm thế nào trở về được mau chóng. “Không, không” Antonio trả lời: “Anh đừng có vì tình yêu tôi quá mà vội vàng làm hỏng cả công việc của anh. Cứ để mọi chuyện chín muồi đến độ cần thiết, còn như tờ văn khế của tôi kí cho tên Do Thái, đừng để cho nó làm rối loạn thần trí yêu đương của anh, hãy cứ vui vẻ, chăm lo hết sức đến chuyện châu hầu người đẹp và tỏ những bằng chứng tình yêu thích hợp nhất để cho anh được người ta mừng đón. Nói đến đó, rưng rưng nước mắt, bác ấy ngoảnh mặt đi và chìa tay cho Basanio, bác ấy bắt tay với một niềm âu yếm đặc biệt thắm thiết”.
ð Như vậy, qua lời nhận xét của Salanio ta có thể thấy tình bạn của hai người họ thật đẹp, không chút toan tính vị kỉ. Họ đối xử với nhau bằng một tấm lòng chân thành nhất, đáng ca ngợi nhất.
Còn về phần Bassanio, nhận sự giúp đỡ của bạn và thậm chí để cho bạn đứng trước sự đe dọa của tờ văn kế và tên Sailoc độc ác, chàng không khỏi lo lắng, thậm chí sẵn sàng từ bỏ khao khát của mình “Anh không thể ký mảnh giấy như thế để giúp đỡ em. Thà cứ để mặc em thiếu thốn còn hơn.” Nếu Antonio không màng nguy hiểm và sẵn sàng phá bỏ thói quen của mình để giúp đỡ bạn thì Bassanio cũng vậy, chàng cũng sẵn sàng bỏ những khao khát của mình để bảo đảm an toàn cho bạn. Tình bạn đó thật đáng ngưỡng mộ và đề cao. Không chỉ vậy, Bassanio sau khi đến được Belmon và vượt qua được thử thách cầu hôn chọn đúng chiếc hòm và cưới được Portia thì hay tin dữ từVenice. Chàng ngay lập tức trở về Venice dù chưa một ngày được sống với vợ mới cưới của mình. Hơn nữa, trong phiên xử án, Bassanio còn bất đắc dĩ phải đưa cho người xử án chiếc nhẫn mà vợ dặn dò phải giữ gìn để trả ơn cho bạn.
Các nhân vật này, được đặt trong sự đối lập với nhân vật Sailoc-tên Do Thái độc ác, tham lam làm nghề cho vay nặng lãi càng làm nổi bật vẻ đẹp của tình bạn giữa các nhân vật.
Như vậy, tình bạn thiêng liêng, cáo quý của các nhân vật đã được tác giả hết lòng ca ngợi. Xây dựng tình bạn này trong tác phẩm của mình cũng là niềm mong ước của Shakerpeare về một xã hội đầy ắp những điều tốt đẹp, trong đó có tình bạn, tình yêu của con người.
c.      Ca ngợi tình yêu:
Porxia với Bassanio dù quen biết chưa lâu nhưng lòng hoàn toàn tin tưởng. Tình yêu đó xuất phát từ lòng tin và từ trái tim
Tình yêu của Porxia với Bassanio: thể hiện trong sự lo lắng khi Bassanio phải lựa chọn trong ba chiếc hòm: vàng, đồng, chì, nàng rất sợ khi chàng sẽ chọn chiếc hòm không có chân dung của mình thì nàng sẽ không được gần chàng. Nàng nói với Bassanio đầy tình cảm: “ Em xin chàng đừng nên vội vã. Nên đợi một vài ngày rồi hãy lựa chọn, vì nhỡ chàng chọn không đúng, là em thiệt thòi không được gần chàng nữa. Xin hãy khoan tâm đôi chút. Em thầm cảm thấy  rằng em không muốn mất chàng”. “ Đôi mắt cảu chàng thật đáng ghét, nó khiên sem phải chịu phép nó và đã chia em ra thành hai phần, một nửa thuộc chàng, nửa kia thuộc chàng, em định nói thuộc em nhưng thuộc em tức là thuộc chàng, và như vậy tất cả em đều thuộc chàng”. Qua lời nói của Porxia chứng tỏ tình yêu nàng dành cho Bassanio thật mãnh liệt, nàng luôn muốn kết duyên cùng chàng, tình yêu đó xuất phát từu trái tim người con gái luôn khát khao yêu đương với trái tim thành thật
Ca ngợi khát vọng cao đẹp của con người:
-         Trước hết, đó là khát vọng con người đặc biệt là người phụ nữ trong tình yêu. Thời đại Phục hưng với sự đổi thay về thế giới quan , nhân sinh quan dẫn tới quan niệm mới mẻ về hôn nhân. Ca ngợi tình yêu, cổ vũ tình yêu là một phẩm chất nhân đao trong hài kịch Sêchpia. Trong tác phẩm ta thấy một khát vọng tình yêu tự do gắn với việc lựa chọn người bạn trăm năm của cuộc đời mình, đó là hạnh phúc do con người xây đắp nên. Tuy nhiên, điểm mới của tinh thần nhân văn ở đây của Sêchpia là tình yêu của người con gái với ý thức sáng suốt , đầy đủ mang lí trí con người thời đại, khao khát tự do của cô gái yêu đời dám chống lại thế hệ già cỗi phong kiến( người cha độc đoán)( So sánh với hình tượng người phụ nữ văn học Phục hưng nước khác: Con người Hy Lạp- La Mã đón nhận tình yêu như đón nhận thứ định mệnh phá hoại đời họ không sao cướng nổi,chịu đựng mệnh lệnh của thần hơn là có ý thức đầy đủ về hành động của mình. Phụ nữ trong văn học Phục hưng Ý mang tính chất lí tưởng hóa chưa hoàn toàn thoát khỏi hào quang gia tô giáo).Ở đây, việc cô vũ tình yêu chân chính, tình yêu mang theo cả sức mạnh của trí tuệ, lòng dũng cảm. Tình yêu là sức mạnh to lớn chiến thắng mọi thế lực phản tiến bộ xã hội.
+ Khát vọng về tình yêu thể hiện qua câu nói của Porxya với Nêrixa( cô người hầu  của nàng): “Ôi, kén chọn! chị không được kén chọn người mà chị vừa ý, cũng không được quyền khước từ kẻ mà chị không ưa. Ấy đấy, ý muốn của một đứa con gái còn sống phải phục tòng ý nguyện của một người cha đã chết, như vậy đó. Nêrixa, không được kén chọn ai không được khước từ ai, há chẳng phải cay nghiệt lắm sao?”Qua đó, ta thấy một tinh thần phản kháng, ý thức đấu tranh cho quyền tự do cho khát vọng của mình. Đó là ý thức, khát vọng của con người cả thời đại Phục hưng gửi vào tác phẩm.
    + Qua đó, ta thấy được quan niệm của Sêchpia về cuộc đời, con người muốn có hạnh phúc thì phải đấu tranh.
-         Khát vọng mơ ước về một xã hội mà con người yêu thương lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau không còn có sự phân biệt chủng tộc, màu da nữa, con người trong xã hội không vì đồng tiền mà đổi thay tất cả, hủy diệt lẫn nhau bằng sự tàn ác, ghê tởm.
+ Câu nói của Sailôc trước lời nói của Antôniô coi thường người Do Thái, khinh rẻ người Do Thái. Tác giả để cho Sailốc bênh vực người Do Thái “Ta là người Do Thái! Người Do Thái không có mắt hay sao? Người Do Thái không có tay, không có cơ quan, hình thù, giác quan, cảm xúc dục vọng hay sao.Khi một người Cơ đốc giáo bị một người Do Thái làm nhục thì hắn chịu nhẫn nhục như người Cơ đốc giáo để làm gì? Để trả thù chứ để làm gì nữa”
+ Đây là câu nói hùng hồn nhất thể hiện khát vọng đòi quyền bình đẳng của người Do Thái, khát vọng hướng tới xã hội tốt đẹp hơn, con người gẫn gũi nhau hơn.

v Ca ngợi và khẳng định cuộc sống nơi trần thế nơi có những tình cảm cao đẹp. ( khác với Boccasio: quan niệm của Boccacsio thời trước cuộc sống trần thế đáng tốt đẹp boiwe ở đó con người được thỏa mãn nhu cầu xác thịt nhục dục, bản năng của con người).

Những giáo lí trung cổ:
+ Trung cổ phong kiến và nhà thờ truyền bá một thứ nhân sinh quan rất mực đen tối và nghiệt ngã. Cõi đời là một :thung lũng nước mắt”, “thiên đường” mới là cuộc sống đáng hướng tới. Kẻ nào biết coi khinh đời trần tục và những lạc thú vật chất, kẻ nào biết chăm lo tu dưỡng phần hồn thì mai sau sẽ được lên thiên đường. Ngược lại thì sẽ bị đày xuống địa ngục chịu đựng những hình phạt ghê gớm.
+ Con người mà Trung cổ đề cao là ông Thánh (Le Saint). Đó là con người sống giữa cõi đời nhưng khinh bỉ mọi lạc thú vật chất, thể xác, chỉ chăm lo tu dưỡng Đức Tin. Chủ nghĩa khổ hạnh, triết lí diệt dục được rao giảng: phụ nữ “ toàn là máu mủ dơ bẩn, ôi giá mà ta phải sờ vào đống nôn mửa thôi thì ta đủ thấy làm ghê rồi. Vậy mà ta há lại ham ôm vào mình cái bọc ô uế đó ru..” ( Thánh Odongdo Cluyni).
+ Trong khi giai cấp phong kiến và bọn tăng lữ nói chung mặc sức ăn chơi trác táng, sa đọa thì chúng lại đem ra phổ biến thứ nhân sinh quan như trên.
Trong tác phẩm của Shakespera đặc biệt là vở kịch chàng thương nhân thành venice ta thấy Shakespera đã thể hiện một không khí vui tươi, phấn khởi của thời đại tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan yêu đời vào tương lai của chính mình . Ông khẳng định cuộc sống trần thế là nơi con người xây dựng hạnh phúc chứ không phải đợi ngày mai lên “thiên đàng” . Đó là tiếng đàn rộn rã chào đón sự trở về của Bassanio và Poxia trong niềm vui chiến thắng của tính yêu, tình người trước cái ác. Tiếng nhạc ấy cũng là âm thanh của cuộc sống nơi trần thế vui tươi và khả năng thuần phục thiên nhiên cải tạo con người như trong lời nói của Lorenro, “ là âm nhạc thu hút thần trí của ta...con người nào mà trong tâm hồn không có một chút hòa âm”, không cảm động khi nghe thấy những âm thanh hòa hợp nhịp nhàng, con người đó chỉ có thể làm những việc phản trắc lừa lọc mà thôi. Tiếng nhạc được tác giả thể hiện như gửi gắm một quan điểm, đánh thức người đọc hãy lắng nghe và hãy tận hưởng những âm thanh vui vẻ của cuộc sống.
Cuộc sống nơi trần thế ấy luôn hiện hữu tình cảm cao đẹp mà con người cần sống và biết trân trọng. Qua lời nói của nàng Giexica về cuộc sống trần thế và con người: “ mong rằng ngài Bassanio sẽ sống một cuộc đời gương mẫu, vì có được diễm phúc được một người vợ như thế kia, ngài được hưởng ở cõi trần những lạc thúc của “ thiên đường” . Con người cần phải sống tốt và biết trân trọng những gì mình có ở hiện tại mới có hy vọng hạnh phúc ở nơi thiên đường như mình mong đợi.
=> Tinh thần nhân văn mà Shakespera muốn gửi đến cho thời đại ông nói riêng và con người của mọi thời đại nói chung: Hãy tìm niềm vui và hạnh phúc giá trị cuộc sống ngay ở chính hiện tại chứ không phải ở một thiên đường xa xôi nào cả. Chính ở thiên đường đó con người sống chan hòa trong tình yêu thương, giúp đỡ nhau tiến bộ sẽ làm nên giá trị đích thực của cuộc sống. Quan niệm ấy đã làm nên giá trị sức sống lâu bền cho tác phẩm.
2. Cảm hứng phê phán.
a. Phê phán tầng lớp quý tộc trong xã hội phong kiến.
-  Tác giả phê phán tư tưởng của chế độ phong kiến cho rằng: con người cao quý và thấp hèn do đẳng cấp và dòng máu quy định. Trong tác phẩm “ người lái buôn thành venice” tác giả phê phán những anh chàng quý tộc tự cao tự đại xem mình là người tài giỏi. Thế nhưng thực chất lại là những con người quá tầm thường với đầu óc trống rỗng, thiếu suy nghĩ chính chắn chạy theo vẻ bề ngoài. Chúng dễ bọ đánh lừa.
+ Ông hoàng xứ Aragong nhận được bức chân dung của một thàng ngốc.
+ Ông hoàng Maroc nhận được bức hình cái đầu lâu người chết và hố mắt rỗng.
Qua hình ảnh điển hình của những tên quý tộc ta thấy Shakespera đã chứng minh rằng không phải những ai thuộc tầng lớp quý tộc đều là cao quý và tài giỏi. Chính vì thế ông đã không đồng tình và phê phán tư tưởng của chế độ phong kiến là khinh rẻ đối với những con người xuất thân từ tầng lớp bình dân trong xã hội.
Phê phán sự thống trị của xã hội đồng tiền thể hiện rõ nét qua nhân vật Shylock.
 Shylock vì thói hám tiền mà ông đã trở thành nô lệ cho đồng tiền. Ông thà chấp nhận cuộc sống kham khổ để giữ gìn những đồng tiền quý giá của mình không bị tiêu hao, ông sống keo kiệt tằn tiện, kham khổ, khước từ mọi lạc thú miêu tả: qua ngôi nhà như một cái địa ngục; vẻ bề ngoài hình dáng của nhân vật Shylock xúng xính trong bộ áo rộng, vàng ệch, y phục bắt buộc của con dân Do Thái, đội cái mũ dạ hoặc lông thú, râu dài thậm thượt và tóc quăn tít mang tai. Bộ điệu xoàng xĩnh như thế, nhưng lão có bạc triệu.
Shylock tham tiền, chuyên cho vay nặng lãi, quý tiền hơn cả máu mủ của mình “Tôi muốn thấy đứa con gái ngỗ nghịch gục chết dưới chân, tai còn đeo nữ trang”, là kẻ nhỏ nhen căm thù Antonio ( vì chàng chỉ trích lão cho vay nặng lãi, làm ảnh hưởng đến việc làm ăn của hắn). Hắn cũng căm ghét Antonio vì chàng là người cơ đốc. Vì đồng tiền hắn mượn mọi câu chuyện, thủ đoạn biện minh cho hành động của mình qua câu chuyện kinh Thánh (Gia-cốp là người chăn cừu cho ông chủ LaBan của mình, nhờ mẹ mà Gia-cốp trở thành bậc trưởng lão thứ 3 sau Abơraham. LaBan và Gia-cốp đã thỏa thuận tất cả những con cừu non có vằn và có đốm thì sẽ dùng để trả công cho Gia-cốp. Khi con cừu cái và cừu đực giao phối vào cuối mùa thu thì chàng tử mục bắt đầu bóc vỏ một số que vào đúng lúc cái việc tự nhiên diễn ra thì đem que cắm trước những con cừu cái dùm đất. Đám này thụ thai vào đó đến kì đẻ ra những con sặc sỡ. Nhờ đó Gia-cốp được ban phúc, lời lãi). Shylock viện vào câu chuyện đó và cho rằng lời lãi là phúc lành khi nó không phải là của ăn cắp đểbiện minh cho hành động vay nặng lãi của mình.
Hành động róc thịt: Shylock vì đồng tiền, vì những thù hận cá nhân mà đã dùng dao để lấy đi tính mạng của một con người: nếu 3 tháng mà Antonio không trả được cho lão 3000 đuy-ca lão sẽ được 1 liver trên cơ thể nào Antonio mà ông ta thích. Khi Antonio không trả tiền đúng thời hạn lão vui mừng, sung sướng, đòi luật pháp phải thực thi ngay cái yêu cầu của lão.
ð Shylock là hiện thân của chủ nghĩa cá nhân đến cực thịnh của thời tích lũy tư bản chủ nghĩa. Đối với Shylock tình người, tình cha con, tình bạn bè không có ý nghĩa gì. Shylock chỉ thừa nhận giá trị của đồng tiền, vàng và lợi ích cá nhân của ông ta. Đến đây người đọc thấy được tư tưởng lớn của Shakespera về sự lên án đối với mặt trái của đồng tiền mà nước Anh là “ nước điển hình của sự tích lũy nguyên thủy của tư bản”( Mác). Shakespera đã từng nói đồng tiền là con đĩ của cả thế giới, là tay mối lái của hết thảy mọi người và hết thảy dân tộc
d.    Phê phán sự kì thị của tôn giáo, chủng tộc
Shylock đã  ý thức sắc sảo về dân tộc của mình, hắn ý thức được lòng tự ái dân tộc khi bị chế nhạo, kinh miệt, thông qua giọng điệu vô cùng cay nghiệt, giễu cợt:
+ “ Chỉ vì tôi là một người Do Thái. Chẳng lẽ người Do Thái không có mắt có tay, có đầy đủ giác quan với mọi thứ tình cảm và những nỗi say mê à? Họ chẳng ăn cùng một loại thực phẩm như người Cơ đốc hay sao? Chẳng phải người Do Thái cũng bị thương tích bởi cùng những loại vũ khí, cũng mắc phải những căn bệnh và được chữa trị bằng những vị thuốc giống như người Cơ đốc đó sao? Chẳng phải mùa hè người Do Thái cũng nóng bức, mùa đông cũng lạnh buốt y như các tín đồ Cơ đốc đó sao? Nếu các người đâm chúng tôi không chảy máu à? Nếu các người cù chúng tôi không cười à? Nếu các người đầu độc chúng tôi không chết à? Nếu các người xúc phạm chúng tôi, chúng tôi lại không trả thù à? Nếu các người giống chúng tôi những cái đó, thì bất luận cái gì chúng tôi cũng giống các người hết.
+ “Thưa ngài antonio, biết bao lần, trên cầu rialto, ngài đã trách mắng tôi cho vay nặng lãi, lần nào tôi cũng nhún vai không buồn trả lời, vì sự nhẫn nhục  là đặc tính riêng biệt của dân tộc tôi. Ngài đã cho tôi là phản giáo, chó ghẻ, ngài nhổ toẹt vào áo chủng tộc Do Thái của tôi, tất cả chỉ vì tôi toan tính theo ý mình, những cái thuộc về tôi. Nhưng hôm nay, hình như ngài cần đến tôi và ngài phán: “shylock, chúng tôi cần tiền”. Lời ngài sao mà ngọt ngào, thế mà chính ngài đã nhổ vào râu tôi, đạp vào người tôi, như đạp một con chó hoang lởn vởn trước cửa nhà ngài. Hẳn tôi phải trả lời ngài: “một con chó có tiền không, thưa ngài? Chó mà có thể cho ngài vay 3000 đuy-ca à? Hay tôi phải cúi gập người xuống chào ngài và khép nép thưa: “bẩm ngài thương nhân, thứ tư rồi,ngài khạc vào mặt tôi, ngày kia, ngài đấm đá tôi túi bụi, một lần khác, ngài mắng tôi là đồ chó. Đáp lại những cách đối đối xử dịu dàng đó, tôi rất lấy làm sung sướng được cho ngài vay  thật nhiều tiền”.
ð Như vậy, Sếch-xpia đã là người đâu tiên phê phán sự phân biệt chủng tộc.Ông khẳng định con người có quyền được sống. Ông không cổ súy cho nạn phân biệt chủng tộc. Ông đã cất lên tiếng nói đầu tiên cho sự phân biệt chủng tộc ở Anh. Đó là tiếng nói đầy căm phẫn đầy đau đớn của những người Do Thái: họ cũng là con người,cũng có quyền được sống, quyền được tự do và bình đẳng như những người bản địa.
IV.           TỔNG KẾT
-         Shakespera là tác giả tiêu biểu của nền văn học châu Âu thời kì Phục hưng. Sống vào giai đoạn quá độ từ chế độ phong kiến sang tưu bản ông đã nhanh nhậy nắm bắt được bản chất của thời đại để đưa vào tác phẩm cảu mình. Nhân vật của ông là con người mới của thời đại mới, những con người dám cất lên tiếng nói đòi quyền sống, quyền tự do đích thực.
-         Tinh thần nhân văn của Shakespera là sự kế thừa tinh thần nhân văn của các tác giả thời Phục hưng trước đó. Song cái mới trong tinh thần nhân văn ở tác phẩm này được thể hiện rõ: Ông là người đầu tiên trong văn học có cái nhìn sâu sắc về quần chúng và là người đầu tiên phê phán xã hội đồng tiền.



Tài liệu tham khảo:
1, Lê Huy Bắc, Giáo trình văn học phương Tây, NXB Giáo dục Việt Nam
2, Lê Nguyên Cẩn, Tác giả và tác phẩm nước ngoài trong nhà trường William Shakespera, NXB ĐHSPHN
3, Chàng thương nhân thành Vơ-ni-dơ, NXB Thăng Long.
4, William Shakespear.


Bảng phân công công việc
Thành viên
Nội dung công việc
1, Lữ Thị Thiết
e.      Tóm tắt tác giả, tác phẩm
f.       Ca ngợi vẻ đẹp con người
g.     Quan niệm giáo lí nhà thờ trung cổ
h.     Đánh máy
i.       Thuyết trình
2, Lý Thị Thanh Thảo
j.       Bối cảnh lịch sử thời đại Phục hưng Anh
k.     Tình bạn, tình yêu trong ca ngợi vẻ đẹp con người
l.       Phê phán xã hội đồng tiền nhân vật Shylock
m.  Ca ngợi khát vọng cao đẹp của con  người
3, Nguyễn Phương Thảo  (nhóm trưởng)
n.     Tinh thần nhân văn trong VH Phục hưng và VH Anh
o.     Ca ngợi và khẳng định cuộc sống trần thế trong tác phẩm
p.    Phê phán tầng lớp quý tộc
q.     Khái quát về tinh thần nhân văn trong tác phẩm
r.      Ca ngợi khát vọng con cao đẹp con người

4, Bùi Thị Phương Thảo
s.      Bối cảnh lịch sử thời đại Phục hưng Anh
t.       Tình bạn và tình yêu trong ca ngợi vẻ đẹp con ngừoi
u.     Phê phán sự phân biệt tôn giáo chủng tộc
v.     Ca ngợi và khẳng định cuộc sống trần thế.
5, Lý Thị Tuyền
w.   Tinh thần nhân văn trong VH Phục hưng và VH Anh
x.     Ca ngợi vẻ đẹp con người qua nhân vật Potxia
y.     Phê phán sự phân biệt tôn giáo và chủng tộc
z.      Soạn Powpoint


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét