TINH THẦN
NHÂN VĂN CỦA THỜI ĐẠI PHỤC HƯNG QUA TÁC PHẨM “MƯỜI NGÀY” CỦA BOCCACCIO
I.KHÁI QUÁT
CHUNG.
1.Tác giả
tác phẩm
Boccaccio
tên đầy đủ là Giovanni Boccaccio.Sinh ngày 16 tháng 6 năm 1313, mất ngày 21
tháng 12 năm 1375.
Ngay
khi văn học Ý ra đời, đã xuất hiện ba thiên tài: Đantê ( 1265- 1321), người
sáng tạo ra hùng ca. thơ tự sự và giáo huấn Ý. Pêt'raca (1304-1374), người canh
tân thơ trữ tình Ý và Giôvanni Boccaccio ( 1313- 1375), người đặt nền tảng cho
văn xuôi nghệ thuật Ý. Ba người là gạch nối giữa thời Trung cổ và thời Phục
Hưng văn nghệ châu Âu
Năm
mười lăm tuổi, ông được cha cho đi Naplơ để học nghề buôn và học luật. Những
năm tuổi thanh niên này ở Naplơ có một đời sống văn hóa sôi nổi đã quyết định
bước đi của ông, ông học tiếng La Tinh, nghiên cứu văn học cổ La Mã, say mê nhà
thơ Vecgiliut. ông tham gia sinh hoạt cung đình vua Rôbe, giao thiệp với những
nhà văn, nghệ sĩ, bác học, quý tộc và kinh doanh có tên tuổi
Năm
1340, Boccaccio 27 tuổi, thấy ông bỏ học theo con đường văn chương bất trắc, cha
ông không gửi tiền trợ cấp cho ông nữa. Ông đành bỏ Naplơ về Flôrăngx với cha.
Cuộc đời của Boccaccio gắn với thành phố này, nơi ông ở lâu nhất
Ông
đi vào lĩnh vực truyện văn xuôi còn chưa ai khai thác một cách nghệ thuật. Sau
trận dịch hạch khủng khiếp năm l343, ông sưu tầm tài liệu chuẩn bị viết tập
truyện Mười Ngày, xuất bản năm 1353.
Những
tác phẩm tiếng Ý mang lại vinh quang cho Boccaccio như: Nữ Thần ở Fixôlơ (
Ninfale Fiesolano, 1345 - l346);Con quạ(Corbaxiô, 1355 );tập thơ Rime;g Người
say mê tình ái (II Filocolo);Flor và Blăngsơflor (Flor et Blancheflor);Tiểu
thuyết Hoa Hồng nổi tiếng thời Trung Cổ
Ngoài
những sáng tác nổi tiếng bằng tiếng Ý ông còn sáng tác nhiều tác phẩm bằng tiếng
La tinh nhưng những sáng tác này không mang lại nhiều tiếng vang đáng kể như : Nỗi
gian truân của những nhân vật nói riêng (De Casbus virorumillustrium, 1355), tập
tiểu sử Về những phụ nữ nổi tiếng (Declaris mulieribus, l374), tiểu sử của 104
phụ nữ đạo đức hoặc xấu xa.
Năm
1362 khi Boccaccio 49 tuổi qua một cơn khủng hoảng tâm hồn vì những lý do tôn
giáo, ông định thiêu hủy tất cả các sách viết bằng tiếng Ý của ông, cho là quá
phóng túng và tội lỗi. Nhưng Pêtraca đã kịp thời ngăn chặn ý định đó.
Boccaccio
đi Naplơ và Vơnidơ để kiếm một địa vị. Thất vọng, ông về sống chục năm cuối đời
ở Xectanđô. Ông sống những năm tháng cô đơn và lặng lẽ, chuyên nghiên cứu văn học
cổ La Mã - Hy Lạp cho đến khi chết, năm 62 tuổi.
2 Tác phẩm
“Mười Ngày”
Đây là tác phẩm lớn nhất của Boccaccio viết
năm ông 37 tuổi khi ông đã có hai chục
năm trong nghề văn, lấy tên là Décaméron, tiếng Hy Lạp nghĩa là Mười Ngày vì tập
sách gồm một trăm truyện kể trong Mười Ngày, mỗi ngày mười truyện.
Theo
tác giả giới thiệu năm 1348, trong khi bệnh dịch hạch hoành hành ở Flôrăngx, mười
thanh niên thượng lưu (bảy nữ và ba nam) rời bỏ thành thị để lánh nạn ở một biệt
thự nông thôn. Để tiêu khiển, họ quyết định mỗi ngày mỗi người kể một truyện.
Như vậy là sách chia làm mười chương, mỗi chương gồm truyện của mỗi ngày.
Mỗi
ngày lần lượt một người được bầu làm Hoàng Hậu hay vua để điều khiển tổ chức, để
ra một chủ đề chung cho các truyện kể ngày hôm đó. Mặc dù phụ thuộc vào chủ đề,
mỗi truyện đều độc lập về nội dung, tính chất, bố cục. Sinh hoạt hàng ngày của
nhóm ít thay đổi, dạo chơi, đàm luận kể chuyện, kết thúc là một bài ca
(canzone) để múa hát nhân đó Boccaccio có dịp giới thiệu một số thơ trữ tình
hay của mình.
3.Tóm tắt
tác phẩm
Mở
đầu tác phẩm là lời đề tặng của tác giả, tặng cuốn sách cho những chàng tình
nhân xấu số và đặc biệt dành tặng cho những người phụ nữ.Tiếp theo tác giả
trind bày lí do khởi đầu câu chuyện.Đó là nạn dịch hạch khủng khiếp năm 1347
tàn phá thành phố Florangx.Trong hiểm họa này có bảy cô gái và ba chàng trai họ
quyết định họp lại , quyết định trở về vùng nông thôn để nánh nạn.Tại đó họ sống
một cuộc sống tự do tự tại.Để giải trí ,họ luân phiên mỗi ngày một người đống
vai làm nhà vua hay bà hoàng, có nhiệm vụ chỉ ra một đề tài để cả mười người
cùng kể.Mỗi người một câu chuyện theo đề tài đó.Từ đó cuốn sách được chia làm
mười chương,mỗi chương gồm truyện của một ngày.
Thông
qua tác phẩm Boccaccio đã cất tiếng đòi quyền tự do , nhu cầu,khát vọng của con
nười và tác giả cũng lên án phê phán xã hội lúc bấy giờ,những thói hư tật xấu của
con người.
II.Khái Niệm
1.Tinh thần
nhân văn .
Thuật
ngữ “Nhân văn” cần được hiểu theo nghĩa của từng từ tố :”nhân” là người ý nói
mang các đặc trưng của con người ,bản chất con người;”văn” là vẻ đẹp văn hóa
văn minh.”Nhân văn” có thể hiểu là những giá trị đẹp đẽ của con người.
Một
tác phẩm có tinh thần nhân văn là tác phẩm văn học thể hiện con người với những
vẻ đẹp của nó đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, tâm hồn,tình cảm,phẩm
cách,…Tác phẩm mang tinh thần nhân văn phải hướng đến khẳng định ,đề cao vẻ đẹp
của con người.
2.Tinh thần
nhân văn của thời đại Phục Hưng trong tác phẩm “Mười Ngày” của Boccaccio.
III.TINH THẦN
NHÂN VĂN THỜI ĐẠI PHỤC HƯNG TRONG TRUYỆN
“MƯỜI NGÀY” CỦA BOCCACCIO.
1.Phê phán
chế độ phong kiến và giáo hội.
Thời
kì La Mã sụp đổ đã kéo theo sự suy yếu của văn học Cổ đại. Tiếp theo đó là sự
phát triển mạnh mẽ của Thiên chúa giáo vào thời kì Trung cổ. Tư tưởng của thiên
chúa giáo, cùng các Giáo hội và sự lớn mạnh
của tầng lớp phong kiến đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn thể xã hội. Cũng chính từ
đây, những chuẩn mực mới ra đời: hình ảnh của vua chúa được đề cao và xem trọng;
hình ảnh những con người thấp kém không được đề cập và được xếp vào hạng thứ yếu
trong xã hội.
“ Đêm trường Trung cổ” kéo dài cho đến thế kỉ XV
thì mới xuất hiện một xu hướng sáng tác mới. Đến thời kì Phục hưng lúc này các
nhà văn đi theo con đường sáng tác được học tập từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Và Boccaccio cũng không nằm ngoài tư tưởng thời đại ấy. Tư tưởng nhân văn được
coi là một chủ đề xuyên suốt trong quá trình hình thành và phát triển. Đầu tiên
đó là sự phản kháng với xã hội phong kiến, với Giáo hội, phê phán tầng lớp quý
tộc, chế giễu đạo đức giả của những người tu hành.
Đầu
tiên, Boccaccio phản kháng chế độ phong kiến, lên án Giáo hội và giáo lí hà khắc.
Thông qua tác phẩm Mười ngày, ông đã
khắc họa bức tranh xã hội phong kiến ở Ý với hệ tư tưởng giáo điều, mà trực tiếp
là sự ảnh hưởng của những Giáo hội với những giáo điều mục rỗng. Boccaccio đã
lên án xã hội phong kiến lỗi thời khi chỉ tin vào những điều trong Kinh thánh,
quên mất đi hiện tại đời thực của cuộc sống, mà trực tiếp chính là con người.
Boccaccio đã phản ánh mạnh mẽ Giáo hội đương thời thông qua các hình ảnh nhà thờ,
các tu sĩ…
Ngay
ở phần mở đầu của truyện ngắn này, câu chuyện Tinh thần Gia tôgiáo, với sự xuất hiện của nhân vật Xinpenletto- kẻ
ăn trộm với những lời nói dối và sau này được mọi người tôn thờ gọi là Thánh.
Khởi đầu nhân vật này phản ánh những thuyết lí Kinh thánh đã trở nên sáo rỗng.
Nhân vật Xinpenletto là một con người lừa bịp, trước khi hắn chết đã thêu dệt
cuộc đời mình bằng những sự kiện hoàn toàn bịa đặt. Nhưng lời nói này đã hoàn
toàn lừa gạt được tu sĩ được cho là người chí thánh và uyên bác.Y sẵn sàng phá
bỏ mọi sự thề nguyền dù lời nguyền luôn được coi trọng và là một lời hứa danh dự
của một con người, nhưng y sẵn sàng phá bỏ lời thề đó. Thay vào đó y cảm thấy
vui sướng khi gây ra những đau thương và mất mát cho người khác. Những lời nói
dối của y đến nỗi hai kẻ cho vay nặng lại đã phải thốt nên rằng: “Thằng cha ghê
thật! Tuổi già, bệnh hoạn, nỗi sợ cái chết đến gần, nỗi sợ Chúa, mặc dù y sẽ ra
tòa án của Người trong giây lát, không có gì có thể lay chuyển sự tán ác của y,
không thể ngăn y muốn chết như y đã sống”.
Đức
tin là Chúa và Chúa được tôn sùng mãi mãi, là đấng tối cao. Nhưng điều này khác
biệt hoàn toàn khi đến nhân vật Xinpenletto. Đám ma của y được nhiều người dân
đưa tiễn với nghi thức long trọng nhất, và không ai biết được những điều xấu xa
mà y đã làm. Y là tên ăn cướp tệ hại. Hình ảnh ấy phản ánh một xã hội mà trắng
đen lẫn lộn. Con người ta đi dưới một đám mây mù, không thể phân biệt rành mạch,
để rồi tên đại bịp ấy được yêu quý gọi là - Thánh Xiappenletto.
Thứ
hai, Boccaccio chế giễu thói đạo đức giả của những người tu hành. Cuộc sống của
Giáo hoàng, các Hồng y giáo chủ, các giáo chủ khác; tất cả họ từ người lớn nhất
đến người nhỏ nhất đều phạm tội nhục dục hết sức vô sỉ. Tất cả bọn họ đều có
tính phàm ăn, nát rượu, say sưa chè chén…. Những súc sinh phóng túng ấy là nô lệ
cái bụng của họ. Cái được gọi là “ bữa xoàng nhà tu”, “ việc phần đời nhà tu” ấy
thật khiến cho người khác cảm thấy ghê sợ. Những người được cho là những sứ giả
do Chúa phái đến giờ đây không khác gì những kẻ cặn bã trong xã hội. Những thú
ăn vui sa đọa chính là niềm vui của họ. Những tu sĩ, giáo sĩ đã mang trong mình
tất cả những đức tính xấu xa nhất của con người. Những thuyết lý về Giáo hội,
những giáo lí, luật lệ đã bị sụp đổ hoàn toàn, thay vào đó là “ hang ổ của yêu
quái”. Gia tô giáo từng bước bước vào con đường thoái trào, giờ đây đã bị bao
phủ những mây đen mù mịt.
Đó
còn là thầy tu trong dòng thánh Frangxa Đatxi – người đòi lấy Froranh (một đơn
vị tiền tệ) đầy tay. Những bát cháo ở tô của ông và các tu sĩ được lấy cho những
người dân nghèo, ông không biết suy nghĩ cho người khác mà chỉ thỏa mãn chính bản
thân mình.Câu nói “ Cho một thì người sẽ nhận được một trăm” ông thầy tu vẫn có
thể ngồi cười một cách sảng khoái. Hay hình ảnh đáng lên án và đầy ghê tởm của
anh chàng tu sĩ Rơnô. Khi đã khoác lên mình áo khoác của thầy tu mà vẫn còn
quen thói phù phiếm. Rơnô vừa là tình nhân của mẹ đứa bé, vừa là cha đỡ đầu. Lấy
lí do những câu niệm thần có thể diệt được giun trong cơ thể của đứa bé. Những
thói quen phù phiếm ngày một tăng và hầu hết xảy ra đối với tất cả tu sĩ.
Không
chỉ có những nam tu sĩ mà những nữ tu hành – những người được xem là cao quý và
thánh thiện cũng không khác là bao. Các nữ tu sĩ tha hồ trêu ghẹo người con
trai giả câm Maxetto, “các cô cũng chế anh theo cách người ta đối xử với người
câm và nghĩ rằng anh ta không nghe thấy được”. Từ bà tu viện trưởng đến các nữ
tu sĩ khác đều có những hành vi thỏa mãn những đòi hỏi của bản thân. Ai cũng bầy
mưu, nghĩ kế để nắm bắt anh chàng, và họ bắt anh chàng giữ đến cuối đời. Và đặc
biệt hơn, họ bịa ra rằng vì họ luôn càu nguyện nên anh chàng có thể nói được.
Thật là một lời nói dối trắng trợn!
Ta
rõ ràng nhìn thấy sự trụy lạc, thối rữa của những tu sĩ. Những con người ăn
chay, đọc Kinh thánh nhưng lại mang trong mình tính nhục dục không thể kiểm
soát. Họ sẵn sàng làm tất cả mọi thứ để thỏa mãn bản thân dù đó là vấn đề tiền
bạc hay tình yêu. Giờ đây những quyển Kinh thánh, những lời sám hối không còn
nơi để sử dụng vì người sử dụng và truyền tải nó đã bị tha hóa hết thảy.
Thứ
ba Boccaccio đả phá giai cấp quý tộc. Đó là những con người giàu có, có chức,
có quyền nhưng sống hẹp hòi, ích kỉ, vụ lợi cá nhân. Tiêu biểu như lãnh chúa
Ecmeno Griomadi, lãnh chúa Canedenla
Xcala hay đó là sự nhu nhược của vua đảo Syprơ. Tầng lớp quý tộc chỉ còn là những
con người đểu cáng khoác lên mình bộ áo thanh lịch.
“
Họ cố gắng khôi phục sự hòa hiếu, khi xảy ra các cuộc xung đột hay hiềm thù giữa
các nhà quý tộc. Họ khuyến khích các cuộc hôn nhân và thắt chặt lại những quan
hệ thân thích và bạn hữu. Những lời tế nhị và sắc sảo của họ là niềm an ủi cho
những đầu óc bực bội và là điều giải trí cho các triều đình. Sau hết, những lời
phê phán cay độc, nhưng rất thân ái của họ, biết chế nhạo những tính xấu của kẻ
khác.”
“ Thêm vào đó là văng vào mặt nhau mọi tính xấu,
mọi ai nhục, mọi tệ tập, có thật hay bịa đặt. Cuối cùng họ dùng những lời cám dỗ
đầy lừa dối để dẫn dắt những kẻ ngây thơ phạm những điều xấu xa hèn hạ. Xin nhớ
rằng những tên bịp bợm ấy, được các lãnh chúa thảm hại, thô lỗ của ta, coi trọng
nhất những kẻ được hưởng ân huệ lớn nhất từ họ, lại là những con người ghê gớm
nhất về hành vi và lời nới”.
(
Trích truyện Một bích họa ngụ ý trong
Mười ngày ).
Ngoài ra, Boccaccio còn rất coi trọng giai cấp
tư sản. Trong những bước đầu của thời kì Phục hưng thì các phong trào chống phong
kiến và cải cách tôn giáo do giai cấp tư sản diễn ra liên tiếp, mạnh mẽ. Các
phong trào này chống Cơ đốc, Giáo hội, đưa đến những cuộc cải cách mạnh mẽ.Giai
cấp tư sản ra đời đóng một vai trò quan trọng trong việc đấu tranh xóa bỏ chế độ
phong kiến. Những giáo lý khắt khe và những luật pháp hà khắc đã trở thành một
lực cản lớn; chính vì vậy mà giai cấp tư sản đi tìm cho mình hệ tư tưởng mới. Họ
tìm lại những nét văn hóa cổ đại để chống lại ý thức thời Trung cổ, trở thành một
trào lưu văn hóa mới. Đây cũng chính là bước mở đầu cho tư tưởng nhân văn chống
lại sự giáo điều của quân quyền và thần quyền.
2.Ca ngợi vẻ
đẹp của con người
a) Vẻ đẹp
ngoại hình
Trong
truyện ngắn Mười ngày, chúng ta có thể nhận thấy rằng, có khá nhiều nhân vật có
sắc, có vẻ đẹp ngoại hình được miêu tả, mặc dù chỉ với vài ba câu, nhắc đến những
đường nét sơ sài, nhưng người đọc vẫn có thể hình dung ra vẻ đẹp của các nhân vật
trong tác phẩm.
Trong
chuyện kể Vương phi báo thù, có thể thấy dù sống trong cảnh nghèo đói lưu lạc,
ăn vậm rách rưới, cô gái nhỏ Jannet vẫn được miêu tả là có gương mặt xinh đẹp,
toát lên vẻ xinh xắn, diện mạo dễ thương.
Hay
trong truyện Con ma, có nói Gianni có cô vợ rất xinh và có duyên là Tetxa, con
gái Mannuyxio đê Quylia, ả thông minh và tinh ranh.
Trong
truyện Cô nàng õng ẹo rởm, Xietca, cũng được điểm qua là cô gái xinh xắn, người
cân đối, có vẻ khá cao quý.
Qua
các ví dụ trên, chúng ta thấy rằng ở đây tác giả, dù chỉ gợi, không đi sâu vào
miêu tả ngoại hình của nhân vật, nhưng khi đọc thì chúng ta đã nhận ra vẻ đẹp
bên ngoài của các nhân đã được chú ý và đề cao.
b) Phẩm chất
đáng quý
Thứ nhất: Sống
ân tình, có trước có sau
Người
giúp đỡ người, chẳng cần trả ơn, là hành động rất đáng trân trọng, nhưng người
mang ơn luôn nhớ đến người có ơn với mình, còn đáng quí hơn, nó thể hiện đó là
người sống có trước, có sau, không phụ tình, bạc nghĩa, sống đúng với đạo lý,
quy luật ở đời, là đức tính tốt đẹp của con người.
Trong
truyện Trận bão có nhắc tới nhân vật Lăngđônfo, ban đầu anh ta giàu có nhưng
làm ăn thất bát, phá sản, cuối cùng anh ta thu lại toàn bộ số vốn mình có để
mua một chiếc thuyền nhỏ, đến khi ra khơi, cũng bị bão lật thuyền, rơi xuống biển
tưởng rằng mình không còn cơ hội sống sót, nhưng may mắn anh được một người đàn
bà tốt bụng cứu vớt, chăm sóc. Sau khi bình phục, amh đến Trani, được mọi người
giúp đỡ, cho quần áo, ăn uống, đến thành phố, nghĩ mình được yên ổn, Lăng đôn
fo mới cởi chiếc túi của mình ra xem châu ngọc kĩ lưỡng,vì trước đây anh chưa
làm được. Thấy rằng có rất nhiều và phẩm chất quí tới mức, ví thử bán đúng giá,
hay kém giá đi nữa anh cũng sẽ giàu gấp đôi trước lúc anh ra đi, tìm cách tiêu
thụ châu ngọc. Nóng lòng trả ơn người đã giúp đỡ mình ở Confu, Lăng đôn fo gửi
một số tiền lớn cho người đần bà trung hậu đã vớt anh lên khỏi nước, anh cũng đối
xử với những người bạn ở Tranni đã giúp đỡ anh như vậy. Giữ cho mình phần còn lại,
từ bỏ việc buôn bán, anh sống sung túc cho đến cuối đời.
Việc
trả lại ân nghĩa đã giúp đỡ mình, cuối cùng được sống sung túc cả đời, cuộc đời
của Lăng đôn fo, đã khái quát lên một điều, mà ở thời kì đó mong muốn và tin tưởng
đó là con người sống cần có tình, có ân nghĩa thì sẽ xứng đáng được sốngcuộc sống
đầy đủ.
Thứ hai: Biết
giữ gìn danh dự
Trong
truyện Vương Phi báo thù, mặc dù bá tước Xixang ve, là một người đàn ông đã góa
vợ, ông vẫn rất trung thành với đức vua và thái tử, từ chối tình cảm của vương
phi vợ thái tử, khi bị vu oan hãm hiếp vương phi, ông cùng các con bở chốn sang
nước khác sinh sống chứ nhất quyết không chịu chấp nhận tình cảm của vương phi.
Thấy được rằng, ông quyết giữ danh dự, trung thành của mình với nhà vua, và người
vợ quá cố của mình, quyết không để danh dự của mình bị vẩn đục
Cũng
trong chuyện kể này, chúng ta chú ý đến nhân vật Jannet, là con gái của Xixang
ve, đã được một bà bá tước nhận nuôi từ lúc nhỏ, đến khi đã trưởng thành, bà bá
tước muốn gả chồng cho nàng, Jannet vẫn ân cần, thông minh đáp lại: “ Thưa bà,
bà nhận tay con từ một người cha khốn khổ, để nuôi nấng con như con đẻ, có lẽ
ra con phải vâng theo mọi lời của bà. Song về điểm này, con xin lỗi bà, là phải
cưỡng lại lời của bà, và con nghĩ con làm đúng. Nếu bà ưng cho con một người chồng
con thực chủ tâm yêu anh ta, chứ không phải là một anh khác. Di sản tổ tiên của
con chỉ còn lại là danh dự của con, đó là điều mà con định bụng giữ gìn suốt đời”
Danh
dự là một trong những phẩm đáng quý, con người cần phải gìn giữ trong bất kì
hoàn cảnh nào, dù nghèo khó, đói kém, vất vả.
Thứ 3: Giữa
người với sống sống có tình thương yêu, giúp đỡ che trở
Con
người họ sẵn sàng giúp đỡ nhau, không phân biệt đẳng cấp, giới tính,…không tính
toán thiệt hơn, bao bọc, san sẻ cùng nhau.
Trong
truyện Vương phi báo thù, sau khi Xi ăng ve cùng các con mình bỏ chốn sang sống
ở nước khác sống nghèo đói, ăn xin. Vợ một ông đô đốc giàu lòng trắc ẩn, thương
yêu, trông thấy cảnh nghèo khổ của cha con nhà bá tước đã xin được nuôi Jannet
và hứa nuôi dạy khi nào mà trở thành một cô gái ngoan và đến lúc sẽ gả chồng
cho Jannet, mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Janet được nuôi dạy chu đáo, nàng xinh đẹp
được mọi người yêu mến hết sức, vị phu nhân muốn tìm người tử tế gả nàng đi,
nhưng sợ gả phải một người quê kệch, cuối cùng vượt qua rào cản lớn nhất là
giai cấp, bà để Jannet, kết hôn với con trai mình và sống hạnh phúc cả đời.
Thứ 4: Dù mắc
phải rất nhiều sai lầm, nhưng con người có lòng sám hối và phục thiện
Trong truyện Vương phi báo thù, vợ thái tử năm
xưa đổi oan cho bá tước Xi ăng ve, giờ đã là hoàng hậu nước Pháp lâm bệnh rất nặng,
bà cảm thấy mình sắp qua đời, bà thú nhận về tội lỗi của mình với lòng sùng tín
lên tổng giám mục thành Ranhv, mà mọi người đều coi như một tu sĩ, chí thiện
chân chính, cùng với những tội lỗi khác, hoàng hậu không chỉ nói ra trước mặt vị
giám mục mà còn kể ra rất nhiều chi tiết, viện chứng, nhiều nhân vật đáng tin,
và cầu xin họ khẩn thiết tâu trình lên nhà vua, để ông bá tước nếu còn sống hay
qua đời, thì những người thừa kế của ông được phục hồi lại chức tước ban đầu của
họ.
Thứ 5: Lòng
thủy chung và gan dạ của con người
Trong
truyện Những đồ nữ trang không kín đáo, nàng Ginervo mặc dù bị chồng vu oan, có
ý giết hại, nhưng nàng vẫn gan dạ đối đầu với tên tai sai của chồng mình, thông
minh, dũng cảm dùng lời lẽ có khi cầu xin tha thiết, khi khẳng định để bảo toàn
tính mạng, nàng giả trai, đối đầu với kẻ vu oan cho mình, mạnh dạn đòi lại sự
trong sạch cho bản thân. Khi mọi chyện đã rõ ràng, mặc dù Becna bô đáng chết,
nhưng nàng vẫn tha cho chồng mình, nâng anh dậy, âu yếm và ôm anh trong vòng
tay như chính chồng mình của trước kia.
Ginervo
là người phụ nữ đại diện cho vẻ đẹp phẩm chất đáng quý cho người phụ nữ, mặc dù
bị vu oan, đẩy đến cùng cực, nàng vẫn không chấp nhận số phận, một mực vươn
lên, đòi lại công lý, sự trong sạch. Đáng trân trọng hơn nữa là tấm lòng thủy
chung, son sắt giành cho chồng mình, chính những phẩm chất đó đã giúp nàng có một
cuộc sống hạnh phúc, ấm êm, no đủ cả đời.
Qua
tất cả những ý trên đã phân tích, chúng ta thấy rằng những giá trị nhân văn đã
được đề cao. Con người dù bất hạnh, nghèo đói, đau thương đến đâu, nhưng chỉ cần
có lòng tin, giữ gìn phẩm chất, danh dự của mình, thì cuối cùng vẫn được hưởng ấm
êm hạnh phúc, đó phải chăng là một bài học về đạo đức mà tác giả đã ngầm nhắn
nhủ ở đó.
c)Những con
người có trí tuệ, sắc sảo.
Trong
truyện nhà hiền triết phái Ê Pi Quyn, Guy đô Cavan căng đi được nhận xét là một
thanh niên có trí tuệ lại ham mê khoa học và triết học. tính tình vui vẻ, nói
năng hoạt bát, cực kì ngay thực, môn thao luyện nào cũng thạo, việc gì làm cũng
có duyên và dễ dàng hơn người khác.
Hay
cách xử lý đầy khôn khéo, thông minh của mình nàng Ginervo đã thoát chết trong
truyện Những đồ nữ trang không kín đáo, Ginervo là người phụ nữ xinh đẹp , nàng
bị chồng đổi oan và nghi ngờ, sai một tên tùy tùng giết chết, nhưng với những
ngôn ngữ đầy sắc xảo của mình, nàng đã thoát chết Ginervo khóc và nói rằng: “ Đội
ơn chúa, xin anh hãy rủ lòng thương, mong anh chớ vì tuân theo lời một người
khác mà giết hại kẻ chưa làm gì đến anh. Chúa thấu hiểu mọi việc, mọi vật, người
biết rõ rằng tôi không mắc tội gì khiến chồng tôi đối xử như thế này. Nếu anh
muốn anh có thể làm hài lòng cả Chúa, lẫn ông chủ anh và chính tôi. Thế này
nhé, anh hãy lấy hết quần áo của tôi chỉ để lại cho tôi cái áo chẽn ngắn với
cái mũ của anh thôi, rồi đem hết những thứ ấy về cho chủ của anh, nói rằng giết
tồi rồi.Được cứu vớt, tối sẽ lánh ra xa và đi đến một nơi mà không bao giờ
Becnabo, hay anh, hay bất cứ ai ở Gie nghe tới tôi”. Với những lời lẽ thấu
tình, đạt lý đó, nàng đã thoát chết, không chỉ dừng lại ở đó nàng quyết tìm đến
sự thật, giả trai đến 6 năm, cuối cùng nàng cũng biết kẻ vu oan mình là ai.
Nàng tìm cách chứng minh mình vô tội, vạch rõ sự dối trá của Ăng bro gia ô lô,
chồng mình được thấy sự thật.
Cùng
với trí tuệ thông minh, tác giả còn đề cập tới trí xảo, ranh mãnh của những người
ở tầng lớp dưới, mặc dù phạm tội, nhưng sử dụng trí tuệ, mánh khóe, cuối cùng đều
thoát chết.
Trong
truyện Viện cung nữ của chàng câm, chúng ta thấy được sự khôn khéo của Maxentto
và bà tu viện trưởng. Maxentto đã qua lại với 9 tu nữ và bà viện trưởng, đến
khi không đáp ứng được nhu cầu của cần đó người dần bà, anh ta không giả câm nữa
và nói với bà tu viện trưởng. Tuy rằng rất sốc và ngạc nhiên, nhưng với sự khôn
ngoan, sẵn có bà tránh không để Maxentto đi ra ngoài gieo tiếng xấu cho tu viện.
Bà đã quyết định bố trí với các cô tu sĩ một cách như thế này: Viện quản lý vừa
mới chết xong, họ đưa ra một quyết định khiến Maxentto vui mừng mà tu viện thì
nhận được sự tin cậy ở trong vùng, họ tuyên bố rằng do kết quả cầu nguyện và nhờ
sự can thiệp nhân đức của đức thánh đỡ đầu tu viện mà Maxentto bị câm từ lâu
nay đã nói được.
Trong
truyện Anh coi ngựa tưởng bở, cũng dùng trí xảo của mình mà đã lừa được đức vua
mà thoát chết. Anh coi ngựa có tình cảm với vợ của vua Agiluyn, nhưng thân phận
anh ta hèn mọn, tình yêu thì lúc nào cũng trỗi dậy. Anh ta nghĩ ra kế sách giả
dạng vua để vào phòng Hoàng hậu, sau đó bị phát hiện, anh chăn ngựa bị nhà vua
cắt một chỏm tóc là dấu hiệu để sáng hôm sau nhận ra. Với trí thông minh của mình anh ta hiểu rõ
hành vi, ý nghĩa và dấu tích kia để dùng để làm gì. Y vùng dậy, vào chuồng ngựa
tìm một cái kéo dùng cho việc xén lông ngựa. Rồi rón rén đến gần tất cả những
người đang ngủ, phía trên tai mỗi người y đều cắt như vậy. Vua thấy vậy tự nhủ:
mặc dù hắn có nguồn gốc thấp hèn, nhưng cái thằng mà ta tìm kiếm khắp nơi kia
quả là người có đầu óc hơn người’
Chúng
ta thấy rằng bằng trí tuệ thông minh của mình, tất cả mọi người đều có cách giải
quyết mọi việc thấu đáo nhất, được người khác yêu quý và kính trọng. Dù là ở tầng
lớp, đẳng cấp nào, khi có trí tuệ, cách đối phó, xử lý hiệu quả thì đều đem lại
kết quả tốt đẹp và nhận được sự yêu mến.
3.Ca ngợi
tình yêu và bản năng bình thường của con người
Ngoài
những giá trị thể hiện tinh thần nhân văn như đả kích, chống lại lễ giáo phong
kiến, ca ngợi con người từ trí tuệ, ngoại hình lẫn phẩm chất tốt đẹp bên trong
thì một giá trị không thể bỏ qua của tinh thần nhân văn trong thời kì Phục hưng
trong tác phẩm “Mười ngày” là ca ngợi tình yêu đôi lứa, ca ngợi bản năng tầm
thường của con người.
Bocaccio
thể hiện vấn đề tình yêu là vấn đề xuyên suốt phần lớn các truyện trong “Mười
ngày” ,khát vọng tình yêu tự do của đôi lứa dâng lên một cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, có tình yêu trong trắng ,có
chuyện tình nặng nề về ác thịt, có sự ghen tuông, có tình yêu tế nhị cũng có
tình yêu tàn bạo, có sự nhớ nhung, đau đớn cung có sự oán thù.Tất cả các cung bậc,
khía cạnh khác nhau của tình yêu đều được thể hiện qua các câu chuyện của tác
phẩm. Nhân vật trong các truyện của “Mười ngày” luôn khao khát về một tình yêu
tự do, vượt lên cái lễ giáo phong kiến, phá vỡ sự truyền thống ràng buộc, phá vỡ
quan niệm họ sống vì ý thức cá nhân, vì bản năng nhiều hơn. Và hơn bao giờ hết
hình ảnh người phụ nữ được ca ngợi ,bênh vực đến như vậy. Đó chính là thể hiện
tư tưởng nhân văn trong thời kì Phục hưng, tác giả đã đi khai thác và ca ngợi vẻ
đẹp con người ở những khía cạnh khác nhau mà các thời kì trước chưa từng có.
Không
khó để bắt gặp những câu chuyện tình yêu trong trắng, tốt đẹp và kết thúc có hậu
của đôi lứa.Trong chuyện “Lấy lại được chồng” chính tình yêu vô hạn và sự thông
minh, lòng kiên trì chịu đựng của mình mà Gilettơ đã lấy lại được thân phận và
tình yêu thương của Beetrăng- chồng nàng. Ngoài ra nội dung này còn thể hiện
trong chuyện “Người nô lệ tài giỏi” kể về Goxtanza và Marluyxio. Sau khi tưởng
Marluyxio đã chết và Goxtanza tuyệt vọng, cô đã trôi dạt đến một hòn đảo sau đó
họ tìm thấy nhau, nhận ra nhau và kể cho nhau nghe những chuyện đã xảy ra. Cuối
cùng họ đã trở về và sống hạnh phúc yên ổn bên nhau. Boccaccio đã ca ngợi tình
yêu trong trắng xuất phát từ đáy lòng của cả hai người, họ yêu thương và khao
khát được sống theo tình yêu của mình và cuối cùng họ cung được đền đáp.
Trong
tình yêu không thể thiếu nỗi đau khổ của các cặp đôi yêu nhau mà không đến được
với nhau và Boccaccio cũng không quên thể hiện nội dung này trong các câu chuyện
của tác phẩm “Mười ngày”. Sự đau đớn của con người trong khi yêu mà không được
bên người mình yêu được khắc họa rõ nét trong câu chuyện “Thắng lợi của cái chết”.
Ghixôngđơ là một gái góa bụa, sống với cha là Tăngcređơ vua thành Alecnơ. Vua
cha hết mực yêu thương và không muốn con gái tái giá. Tuy nhiên với bản năng và
tình yêu của mình Ghixôngđơ qua lại với Ghixca một quan chức trẻ, xuất thân thấp
hèn mà chàng đã quan sát bấy lâu nay. Tuy xuất thân thấp hèn nhưng Ghixca lại
khác hẳn người khác về phong cách sống và đức tính.Họ đã hẹn hò qua lại, vui
thú với nhau. Một ngày vua cha phát hiện, thấy ô nhục nên đã cho giết Ghixca, lấy
trái tim chàng đựng vào cốc vàng và sai người đem đến cho con gái ông.
Ghixôngđơ thấy vậy bèn rót thuốc độc vào cốc và uống rồi chết. Boccaccio đã cho
nhân vật sống với tình yêu mãnh liệt của mình đến hơi thở cuối cùng, cận kề cái
chết vẫn nguyện một lòng mong ước được
chôn chung dưới một nấm mồ. Đó là sự đau khổ của những người yêu nhau nhưng bị
lễ giáo cấm đoán, bị chi phối bởi nguồn gốc xuất thân, chức tước, địa vị.
Boccaccio đã để nhân vật của mình nói lên quan điểm về tình yêu và bản năng con
người bằng da bằng thịt, để nhân vật được nói lên ý kiến của mình và sự khát vọng
về một tình yêu là sự trường tồn, vĩnh cửu ngay cả khi đau đớn nhất. Câu chuyện
đã cho ta thấy tác giả ca ngợi tình yêu tự do, thứ tình yêu cao đẹp không phân
biệt xuất thân, địa vị. Họ dám sống, dám hành động và dám kết thúc cuộc đời
mình để tình yêu ấy được và vĩnh cửu. Họ không còn được cùng nhau hưởng lạc
trên cõi đời nhưng cái chết là một sự thắng lợi, thắng lợi về khao khát yêu
thương, về khát vọng và quan điểm yêu và được yêu, được hết mình vì tình yêu
trong khuôn khổ của phép tắc, của lễ giáo phong kiến. Với họ, chết vì tình yêu,
được cùng người mình yêu hơn là sống trong đau khổ.
Cung
bậc tiếp theo của tình yêu là sự oán thù, tàn bạo. Khi tình yêu trở nên sâu đậm
mà không được đáp trả, khi tình cảm dành cho một người là trân quý, là thật
lòng nhưng lại bị coi thường, hờ hững thì rất dễ để tình yêu biến thành thù hận.
Ranh giới giữa yêu và hận rất mong manh. Bocaccio đã nói lên khía cạnh đó của
tình yêu qua một vài chuyện trong tác phẩm của mình. Trong truyện “Không đùa giỡn
với tình yêu” tác giả đã vẽ lên một câu chuyện tình của một chàng giáo đồ tên
là Rênhiê dành cho một nữ thiếu phụ xinh đẹp, duyên dáng nhưng kênh kiệu tên là
Hêlen. Chàng rất mực say đắm và tìm đủ mọi cách để tiếp cận và chinh phục người
thiếu phụ ấy. Từ tình yêu say đắm, mãnh liệt trở thành sự hận thù khi một lần Rênhiê
bị Hêlen lừa đứng dưới sân trong đêm tuyết rơi lạnh buốt với hi vọng sẽ được
bên nàng trong khi trong nhà người thiếu phụ lại gian díu với tình nhân và
chàng giáo đồ đã phải rất khổ sở chịu đựng và lấy lại sức trẻ của thân thể
mình. Sau đó chàng nung nấu ý định trả thù, đến một ngày chàng cũng có cơ hội
khi bày cách cho Hêlen cách để người tình nhân kia quay về bên nàng. Rênhiê đã
trả thù bằng cách để Hêlen trần truồng trên một chòi tháp lạnh lẽo một đêm rồi
chịu sự bỏng rát của ánh nắng, sự đau điếng của ruồi đốt vào ngày hôm sau. Cô hầu
thì bị ngã gẫy chân vì trước đó cũng đã tiếp tay cho Hêlen lừa chàng. Đó là sự
trả thù khi tình yêu bị đem ra làm trò đùa, bị coi thường, khinh miệt. Là bài học
trân quý cho con người không nên đùa giỡn với tình yêu- một thứ tình cảm rất thiêng liêng.
Cái
rất mới ở đây là tác giả đã dám lên tiếng bênh vực nhục dục, ái tình và coi đó
là bản năng bình thường của con người cũng như bao bản năng khác. Nhục dục ái
tình là vấn đề mà lễ giáo phong kiến cho là gay gắt, trái với luân thường đạo
lí thì Boccaccio lại lên tiếng bênh vực vấn đề đó, cho đó là nhu cầu, là bản
năng hết sức tầm thường của con người. Có thể con người không đến với nhau bởi
tâm hồn nhưng họ tìm thấy nhau sự hòa hợp ở thể xác, sự dung tục. Trong truyện
“Con ma” kể về Tetxa vợ của Gianni có tư tình với Frêđêri, họ thường xuyên qua
lại, hẹn hò với nhau nhờ ám hiệu. Một đêm do xảy ra lỗi từ ám hiệu nên Frêđêri
đã đến nhà Tetago cửa, Tetago giả vờ không nghe thấy, Gianni nghe thấy liền
đánh thức vợ và Tetago bảo đó là ma, đọc thần chú để ma đi đi nhưng thực chất
là để người tình biết rằng chồng ở nhà và hãy quay về đi. Bocaccio không để cho
nhân vật của mình bị bại lộ, ông che giấu và bênh vực cho nhân vật đó. Ngoài ra
ái tình còn lộ liêu hơn trong truyện “Trăm sự nhờ cái thùng”.Pêronen tư tình với
Gianen khi chồng vừa ra ngoài đi làm.Bất chợt chồng về nên nàng bảo người tình
chui vào cái thùng, được cớ chồng bán thùng nên nàng đã bảo Gianen là người mua
với giá cao hơn và đang trong thùng để xem xét. Lấy cớ cần cạo rửa nên Pêrônen
đã lừa chồng mình vào bên trong
thùng,thân trên cô thò vào để che miệng thùng,thân dưới thì Gianen đang cùng
nàng thỏa mãn. Tác giả miêu tả rất thường tình: “Hắn ôm lấy bụng người vợ lúc
này đang bịt kín mất hắn cái miệng thùng tô nô rồi đưa con dục trai tráng đến
nơi đến chốn…”. Vì vậy mà chuyện tư tình không bị bại lộ. Ái tình là một trong
những bản năng của con người và hết sức bình thường như bao bản năng khác. Mà bản
năng thì cần được đáp ứng. Bocaccio không chỉ gợi ra vấn đề trong giai đoạn trước
chưa từng xuất hiện mà còn dám bênh vực, lên tiếng bảo vệ vấn đề đó. Với
Bocaccio ái tình,nhục dục là thứ gì đó hết sức bình thường trong đời sống con
người, là một nhu cầu, bản năng của thể ác, cũng có vẻ đẹp riêng đáng trân trọng
và ca ngợi.
Bocaccio
đã vẽ lên một bức tranh tình yêu với đầy đủ những màu sắc, những cung bậc khác
nhau, cả tâm hồn lẫn thể xác, phản ánh rất chân thực đời sống tình cảm con người.
Qua đó nói lên quan điểm rất tiến bộ, rất mới mẻ của ông về tinh thần nhân văn,về
cái đẹp. Con người là một chỉnh thể với rất nhiều vẻ đẹp ở nhiều khía cạnh khác
nhau, vẻ đẹp ấy hiện lên từ những điều tầm thường, bình bị nhất. Nhân vật trong
tác phẩm của Bocaccio đã dám nói lên suy nghĩ của mình về tình yêu, về những
nhu cầu trong cuộc sống. Nhất là người phụ nữ. Họ không còn bị bó hẹp trong lễ
giáo phong kiến đầy bất hạnh mà họ đã có tiếng nói riêng, tâm hồn riêng và những
hành động quyết liệt, táo bạo cho cuộc sống của bản thân mình. Thể hiện ý thức
cá nhân rất mạnh mẽ.
IV.NGHỆ THUẬT
TRONG TÁC PHẨM “MƯỜI NGÀY” CỦA BOCCACCIO
Khi
đọc truyện ngắn Mười ngày chúng ta
khá ấn tượng bởi nội dung cũng như hình thức của tác phẩm này. Không theo một
trình tự, kết cấu hay nội dung xuyên suốt nào, toàn bộ truyện ngắn là các câu
chuyện, mẩu chuyện ngắn, tản mạn, nhưng mỗi truyện lại truyền tải những nội
dung, thông điệp nhất định xung quanh cuộc sống.
1.Kết cấu
Đọc
truyện ngắn Mười ngày, chúng ta thấy
kết cấu khá lỏng lẻo, rời rạc, nhưng không vì thế mà truyện trở nên nhàm chán,
khi thì xoay quanh đến tình yêu, ham muốn, trí tuệ của anh chăn ngựa, lúc lại
là ca ngợi người phụ nữ thủy chung, trong sáng, khi thì ca ngợi tình yêu tự do…
tưởng chừng như tác phẩm không có sự gắn kết, nhưng thành công chính là ở sự lỏng
lẻo đó, đó chính là sự cộng lại vốn kiến thức uyên bác, và tâm hồn nhạy cảm,
uyên bác đầy tinh thần nhân văn của tác giả.
2. Cốt truyện
Cốt
truyện khá đơn giản, hầu như chỉ có vài chuỗi chuyện, dung lượng mỗi truyện chỉ
chiếm vài trang, vài ba nhân vật, nhưng điều gây ấn tượng với người đọc chính
là ở các tình tiết truyện, các xung đột, thắt nút, mở nút, khá kịch tính, các
cuộc đối thoại, lời kể của nhân vật,tác động đến nhận thức, tình cảm, tư tưởng
của người đọc. Có nhiều truyện được mượn của kho tàng truyện cổ dân gian phương
Đông, thời trung cổ,thời thượng cổ, truyện đương thời.
3.Bố Cục
Bố
cục“ truyện lồng truyện”, đan xen vừa tạo ra bề rộng, bề sâu cho tác phẩm, tuy
không cùng thống nhất về nội dung, nhưng câu chuyện này bổ xung cho câu chuyện
kia, cùng nhau tạo nên nội dung, tư tưởng cho tác phẩm.
4.Ngôn ngữ
Ngôn
ngữ được sử dụng khá linh hoạt, giàu sắc thái, đa dạng của nhiều vùng miền, được
viết bằng tiếng Ý, lúc giọng điệu trầm ngâm, suy tư, lúc lại châm biếm, thô lỗ,..
tất cả điều đó hòa quyện trong các câu truyện kể tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Đặc biệt là ngôn ngữ trần thuật, tạo tính chân thực cho câu truyện.
5.Nhân vật
Tác
giả xây dựng hình tượng nhân vật khá rộng, đủ mọi tầng lớp: nông dân, quý tộc,phụ
nữ, trẻ em, công nhân, tri thức…tuy các nhân vật không được khắc họa rõ nét về
tính cách nhưng điều đã toát lên tâm tư, tình cảm của họ, mở rộng đối tượng
nhân vật ra như vậy, tác giả có cơ hội thể hiện cái nhìn cụ thể, bao quát của
mình về cuộc sống.
V. MỞ RỘNG
1.Với “Thần
khúc” của Dante
“Thần
khúc” là tâp thơ kể lại cuộc hành trình của Dante, trong tác phẩm là nhân vật
tôi kể lại cuộc hành trình qua ba thế giới bên kia. Nhà thơ La Ma nổi tiếng
Virgil dẫn ông đi qua Địa ngục và Luyện ngục, Beatrice người phụ nữ mà Dante
đem lòng yêu mến, biểu hiện của một tình yêu thuần khiết dẫn ông qua Thiên
đàng.
Ở
“Thần khúc” vẫn còn mang đậm dấu ấn thời Trung cổ về niềm tin tôn giáo, Chúa
Giesu, quan niệm triết học và sự tượng trưng ,ẩn ý như 3 con thú tượng trưng
cho 3 tính ấu là: “ghen tỵ-kiêu ngạo-keo kiệt”, số 9 là tuổi sắp tròn của
Beatrice và tuổi mới tròn của Dante…Tuy nhiên ở “Thần khúc” cũng đã mang tư tưởng
nhân văn của thời kì Phục hưng, đặt nền móng cho những sáng tác sau này, mở đầu
cho thời kì văn học Phục hưng.
Tư
tưởng nhân văn được thể hiện ở chỗ, trong xã hội của những lễ giáo phong kiến
Dante đẫ mạnh dạn cho suy nghĩ, yếu tố cá nhân, ca ngợi trí tuệ và tình yêu giữa
con người với con người vào tác phẩm. Đó là trí tuệ của nhà thơ Virgil đã dẫn
chàng đi qua Địa ngục và Luyện ngục, là tình yêu của Beatrica đa dẫn chàng đi
qua Thiên đàng và tới sự giải thoát….Sự kết hợp giữa lí trí, trí tuệ và trái
tim sẽ dẫn con người ta tới những giải thoát mới, hướng đi mới tốt đẹp hơn.
2. Với Truyện
Kiều của Nguyễn Du
Có thể thấy, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có
nhiều nét tương đồng với “Mười ngày” của Boccaccio. Là sự đả kích chế độ phong
kiến dẫm đạp lên quyền sống của con người, phê phán thói luân thường đạo lí gò
bó, chật hẹp nhất là đối với hình tượng người phụ nữ. Ca ngợi những con người
tài giỏi với trí tuệ thông minh, nhạy bén. Ca ngợi tình yêu và con đường đến với
tình yêu của nhân vật. Nhân vật trong “Mười ngày” và Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”
đều mạnh mẽ, mãnh liệt bước qua rào cản của xã hội phong kiến để đến với tình
yêu, đến với bản năng của mình.
Cả
hai tác phẩm đều hiện lên hình ảnh người phụ nữ với tiếng nói riêng, suy nghĩ
riêng cùng những hành động vô cùng táo bạo và quyết liệt. Hơn bao giờ hết, nhân
vật trong truyện được tác giả bênh vực, bảo vệ để đi tới con đường tình yêu của
mình.
Hai
tác phẩm đã để lại dấu ấn rất mạnh mẽ trong lòng độc giả về một khuynh hướng
sáng tác mới ,đi ngược lại với xã hội mà tác giả đang sống, họ ca ngợi những vẻ
đẹp mà xã hội đó người ta vùi dập, họ là những con người đi tìm cái đẹp ở những
nơi mà xã hội cho là bùn lầy nhất.
Ở
đây sự so sánh này mang tính chất tương đối vì thời đại mà hai tác phẩm ra đời
hoàn toàn khác biệt nhưng điểm chung nổi bật đều là bảo vệ quyền con người, con
người được sống đúng với bản năng tự nhiên của mình.
VI. TỔNG KẾT
Tinh
thần nhân văn của thời đại phục hưng được thể hiện rõ nét qua tác phẩm “Mười
Ngày”(Boccaccio).Tác phẩm lên tiếng phê phán chế độ phong kiến và giáo hội kìm
hãm tự do của con người.Đồng thời là áng văn ca ngợi vẻ đẹp của con người.Đó là
vẻ đẹp bên ngoài hay những phẩm chất tốt đẹp của con người.Ca ngợi sự tự do,
tình yêu, gia đình, tình bạn.
Đây
là tác phẩm văn học lớn của Boccaccio mang tinh thần thời đại sâu sắc .Qua tác
phẩm còn giúp ta hiểu thêm về tâm hồn , suy nghĩ của nhà văn đối với tư tưởng
tôn giáo và đối với thời đại phục hưng.
Đây
là những điều chúng tôi nhận thấy qua việc tìm hiểu tác giả Boccaccio và tác phẩm
“Mười Ngày”.Còn các bạn, các bạn hãy tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để thấy những
điều tuyệt vời hơn nữa từ Boccaccio và những tác phẩm của ông.
Nguồn: SV K64 ,Khoa Ngữ văn -ĐHSPHN1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét