Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Quan niệm về con người của Maxim Gorky

Nhóm 2:
-         Nguyễn Thị Thúy
-         Nguyễn Thị Huyền Trang
-         Nguyễn Thị Ngọc Trâm
-         Nguyễn Thị Cẩm Vân
-         Nguyễn Thị Ngọc Vân
-         Lê Thị Vân
-         Trần Thị Hải Yến
Đề tài: Quan niệm về con người của Maxim Gorky.
Bài làm
I. Giới thiệu chung:
1. Tác giả:
         * Aleksey Maksimovich Peshkov(1868 – 1936), được biết đến nhiều hơn với cái tên Maksim Gorky - là một nhà văn, người đặt nền móng cho trường phái hiện thực xã hội trong văn chương và là một nhà hoạt động chính trị người Nga. “Gorki” có nghĩa là đắng cay tủi nhục, nhà văn lấy bút danh là Gorki nhằm ghi lại nhớ lại tuổi thơ hãi hùng( 3 tuổi mồ côi cha, 10 tuổi mất mẹ sống với ông bà ngoại, ông tự kiếm sống, vừa tự học và vươn lên bằng nghị lực của mình)
* Những yếu tố hình thành tài năng của Gorki:
- Tuổi thơ đầy hãi hùng, mồ côi cha mất mẹ từ nhỏ sống với ông bà ngoại
+ Bà ngoại là người nhân hậu có vốn kiến thức về văn học nhân gian đã góp phần hình thành tư tưởng nhân đạo, khơi dậy sở trường yêu thích văn học nhân gian của Gorki
+ Ông ngoại là người keo kiệt, dữ đòn nhưng đã dạy cho Gorki biết đọc biết viết và sớm nhận ra gai gốc của cuộc đời
- Tự kiếm sống bằng nhiều nghề như: đi ở, bới rác, khuân vác, phụ bếp. . . Trong thời gian làm phụ bếp được tiếp xúc với người phụ bếp già Xmurưi tốt bụng, mù chữ, tích góp nhiều sách chính người phụ bếp già này đã khơi dậy lòng đam mê đọc sách của Gorki
- Cuộc sống phiêu lưu vừa tự học vừa kiếm sống từ một người chân đất đã trở thành viện sĩ danh dự viện hàng lâm khoa học Nga, tự học đã tạo cơ hội cho ông tiếp xúc với nhiều thành phần trong xã hội
        => hình thành vốn sống phong phú, đặt niềm tin vào con người cùng với nghị lực bản thân vươn lên trở thành nhà văn nổi tiếng, tấm gương sáng cho các thế hệ văn sĩ trẻ
* Những Đóng Góp Đối Với Nền Văn Học Nga Xô Viết
– Là nhà văn vĩ đại của Nga, của thế giới có nhiều đóng góp đối với nền văn học Nga
          + Mở đường cho trào lưu văn học hiện thực XHCN Nga với tiểu thuyết “Người mẹ”
          + Là người có công xây dựng nền văn hoá văn học mới
          + Là bật thầy về truyện ngắn và chân dung văn học
          + Là tấm gương sáng đvới các nhà văn trẻ của Nga về lòng nhân đạo, đam mê đọc sách, nghị lực kiên cường, kiên trì tự học
– Là nhà văn có kiến thức uyên bác trong nhiều lĩnh vực: văn học, triết học, xã hội học, lịch sử học
– Là người coi mỹ học là đạo đức của tương lai
– Là người đặt niềm tin tuyệt đối vào con người, yêu thiên nhiên đất nước, ca ngợi lao động, quý trọng khoa học, say mê nghệ thuật
– Được Lê-Nin xem là “người đại diện vĩ đại nhất của nghệ thuật vô sản”
– Những tác phẩm tiêu biểu: bộ 3 tự truyện (thời thơ ấu, kiếm sống 1916, các trường đại học của tôi 1923), tiểu thuyết “người mẹ” , kịch “dưới đáy”
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Một con người ra đời (1912) là truyện được viết trong bối cảnh nước Nga đang trải qua thời kì "đêm trước của cách mạng tháng Mười". Trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó không ít những nhà văn sa vào bi quan, mất lòng tin, Gorki thông qua tác phẩm này lại biểu lộ một niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Cơ sở của truyện dựa trên sự việc có thật xảy ra với chính tác giải vào cuối mùa hè năm 1892 (1 năm đói kém). Với tài năng của mình, ông đã khiến tác phẩm "Một con người ra đời" vượt ra khỏi giới hạn của một truyện ngắn, trở thành " một mẩu", " một mảnh", " một lát cắt" của hiện thực Nga đương thời và mang dáng dấp của 1 bản trường ca.
b. Tóm tắt tác phẩm:
    Năm 1892 năm đối kém của nước Nga, thiên nhiên kiệt quệ, con người đói khổ bỏ vùng Oren tha phương cầu thực trong đám người đi đó có 1 sản phụ gần đến kì sinh đẻ, chồng chết do ăn nhiều quả Trám rừng, và có cả nhân vật tôi. Họ ra đi nhưng luôn hồi tưởng hối tiếc về quê hương, ra đi với tinh thần lạc quan, hướng đến tương lai.
   Trên đường đi người sản phụ chuyển dạ. Trước sự đau đớn vật vã và lòng nhân ái, nhân vật tôi đã trở thành người đở đẻ bất đắc dĩ họ cùng vượt qua tình cảnh khốn khổ, thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần. Nhưng rồi đứa trẻ cũng ra đời, nó như một sức mạnh kỳ diệu khơi dậy niềm tin trong họ. Người mẹ vô cùng sung sướng, tạ ơn chúa trời. Câu truyện kết thúc bằng cả hình ảnh hân hoan, họ kề vai nhau đi đến chân trời tương lai, họ đặt niềm tin hy vọng, ước mơ cho đứa con yêu.
3. Lí luận quan niệm về con người trong văn học
* Khái niệm con người:
Theo triết học Mac- Lenin: "Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chững giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội"
*Quan niệm về con người trong văn học:
      - Quan niệm về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của nhà văn. Có thể nói, nó giống như là một chiếc chìa khóa vàng góp phần gợi mở cho chúng ta tất cả những gì bí ẩn trong sáng tạo nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ nói chung và từng thời đại nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, song khái niệm nghệ thuật về con người vẫn còn nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau.
     - Ví dụ:
+ Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”. Tức, quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học của tác giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó. Vì vậy, chúng ta sẽ thấy được giá trị của hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm.
           + Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng nói của mình bằng một cách nhìn khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm”.            
            + Cũng với vấn đề về quan niệm nghệ thuật về con người, Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật.” 
          + Macxim Gorki đã từng khẳng định: “Văn học là nhân học”. Đó là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Do vậy, con người chính là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học đều nhằm mục đích miêu tả và thể hiện vào con người.
    => Thực tế cho thấy, không có một tác phẩm, một tác giả hay một nền văn học nào lại chỉ đơn thuần nói về thiên nhiên mà không liên quan đến con người. Nói cách khác, mục đích miêu tả của nhà văn là nhằm hướng đến thể hiện con người
- Tư tưởng của M.GORKI:     
+ "Chỉ có hai hình thức sống: thối rữa và cháy bùng. Bọn hèn nhát và tham lam chọn lối sống thứ nhất, những người dũng cảm và rộng lượng chọn lối thứ hai" (Bài thơ ĐỒNG HỒ)
.
+ "Tất cả ở trong con người, tất cả vì con người!(...) Con Người! Tiếng ấy thật tuyệt diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng!" (DƯỚI ĐÁY)
.
+ Cao cả thay cái chức vị làm người trên trái đất - được thấy bao nhiêu điều kỳ diệu, trái tim được rung động một cách ngọt ngào mãnh liệt biết bao nhiêu trong khi nín lặng chiêm ngưỡng cái đẹp tuyệt vời!
+ "Chú mày phải tự khẳng định cho khoẻ vào mới được, chứ không thì kẻ đồng loại sẽ vặt cổ chú mày..." (MỘT CON NGƯỜI RA ĐỜI)
.

II. Quan niệm của Gorky về con người trong Một con người ra đời
1.      Quan niệm về con người của Gorki được thể hiện qua hình tượng người mẹ: Người mẹ là  đấng sinh thành TẠO HÓA, là người mẹ Chí Thánh, Chí Trinh.
1.1 Quá trình sinh con
Quan niệm về con người của Gorki thông qua hình tượng người mẹ rất đặc biệt khi đặt nhân vật vào một hoàn cảnh đặc biệt. Không phải là sinh trong một căn nhà ấm cúng, không phải nơi bệnh viện mà đó lại là nơi hết sức hoang sơ, mênh mông xa lạ,đó là  bụi rậm cùng với người đỡ đẻ chưa biết chút gì về đàn bà . Chị nông dân ấy với đôi gò má cao, cái bụng chửa phướn tướng đang nhô lên trên cái bụi rậm. Trong tưởng tượng của chúng ta, khi sinh đẻ họ thường có những người thân yêu bên cạnh để bao bọc, che chở, là chỗ dựa trong những lúc mỏi mệt, yếu lòng. Nhưng ngược lại, chị nông dân ấy vừa mất chồng trong lúc đói khát ăn nhiều trái cây lănra chết. Thế là chị đành phải rời quê hương, cùng người hàng xóm đến Otsemtsiry. Khi biết mình sắp “khai hoa”, chị tự mình đi tụt lại phía sau để tránh phiền họ trong lúc họ đang say. Người ta có câu: “người chửa cửa mả”, nghĩa là người chửa thì gần với cái chết. Thế mà chị lại sẵn sàng chịu đựng một mình trong hoàn cảnh mà cái chết có thể đến với chị bất cứ lúc nào.. Ngay từ giây phút đầu, người đọc đã nhận ra đó là một người mẹ cứng rắn, mạnh mẽ.
        Ngòi bút miêu tả tỉ mỉ, chi tiết đã “không bỏ sót một điều gì trong toàn bộ quá trình sinh nở của người mẹ: đau đẻ, trở dạ, cắt rốn, chờ nhau” Nỗi đau tột cùng, sự vật vã, quằn quại thể xác khi sinh con của người mẹ được ví với “miếng vỏ bạch dương hơ lửa”, được mô tả qua những “tiếng rên khò khè”, “tiếng rống”, “tiếng gầm gừ” như những con thú. “Khuôn mặt đỏ bầm, căng bự lên”, biến dạng “trông không còn ra mặt người nữa”, “đôi môi tím bầm mím chặt lại, bọt sùi hai bên mép”, đặc biệt là đôi mắt, “đôi mắt đã dại hẳn đi, chạy đầy những tia máu”, “bạc màu đi dưới ánh nắng” và “tuôn ra những giọt nước mắt của nỗi đau đớn vô cùng của người mẹ”, “toàn thân chị như vỡ ra, chia hẳn ra làm đôi”. Chi tiết hiện thực nhưng không hề thô ráp, càng không “xúc phạmtrắng trợn thị hiếuthẩm mĩ” bạn đọc như một nhà văn Nga đương thời chê trách. Phải chăng “dũng khí” của Gorki khi viết những dòng này đã được tiếp sức từ chính chàng trai trẻ trong câu chuyện 20 năm về trước. Chỉ nghe một tiếng rên khe khẽ anh đã thấy “xao động”, thân thiết, “ruột rà”. Mặc cho người đàn bà xua đuổi, chửi bới; vượt qua sự ngượng nghịu, luống cuống, anh “xông” vào đỡ đẻ chỉ vì “thương chị quá chừng”, cho dù hiểu biết củachàngtrai về “cái khoản này” có được là bao. Và khi đã bế trên tay một con người, mắt anh nhoà lệ, rồi nhìn nó mà cười lớn “Rất mừng được gặp chú bé”. Niềm hân hoan đến trào nước mắt của chàng trai khi chào đón một con người cũng là âm hưởng chủ đạo mà Măcxim Gorki muốn tấu lên trong “bản trường ca” về con người này: “Cao cả thay cái chức vị làm người trên trái đất”.
1.2Niềm hạnh phúc của người mẹ khi khai hoa :
Cách nhà văn miêu tả niềm hạnh phúc của người mẹ, có lẽ không cần phân tích hình ảnh người mẹ trong những cơn đau đẻ vật vã với bút pháp hiện thực. Miêu tả niềm hân hoan hạnh phúc của con người, có lẽ đó mới chính là mục đích nghệ thuật của tác giả. Lúc này, ngòi bút của tác giả thoáng hoạt thật kì lạ. Văn học từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây cũng đều có chung một nét thi pháp cổ phương Đông đã khái quát là “vẽ giống điểm mắt”. Ta thấy rõ để miêu tả niềm hạnh phúc, hân han ấy nhà văn đã tập trung ngòi bút của mình vào việc đặc tả đôi mắt và nụ cười.
 Trong cả câu chuyện nụ cười của người mẹ được miêu tả 7 lần. Đó là nụ cười mỉm khi nhân vật tôi dùng răng cắn rốn cho thằng bé khiến nó khóc rống lên bằng cái giọng ồ ồ vùng Oren. Hay là nụ cười khi thấy đứa con của ình được buộc rốn, đây có lẽ cũng là nụ cười đẹp nhất: “Nụ cười của chị mỗi lúc càng thêm rực rỡ, nụ cười ấy đẹp đẽ, chói lọi đến nỗi tôi gần như là lóa mắt”. Lời văn kể sử dụng lối tăng cấp tính chất: một thêm rạng rỡ ->đẹp đẽ -> lóa mắt. Đó là sự ca ngợi người mẹ đến tột đỉnh. Đây không đơn thuần là nụ cười của một người mẹ mà đó là nụ cười của đấng tạo hóa vĩ đại.
Niềm vui ấy còn lan toả vào cả thiên nhiên xung quanh: bầu trời xanh biếc, lá thu vàng rực, biển vỗ ì ầm, sóng lao xao, mặt trời rọi nắng chói lọi. Phải chăng thiên nhiên cũng mừng vui chào đón sự ra đời của đứa trẻ, chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao với người mẹ. Không phải ngẫu nhiên mà câu chuyện một con người ra đời được đặt trên phông nền là bức tranh thiên nhiên Nga tráng lệ, kì vĩ.
1.3 Tình cảm của người mẹ và sự dũng cảm của đấng sinh thành tạo hóa :
Tình cảm đó được biểu hiện qua những hành động cử chỉ rất nỏ nhưng lại chứa đựng đầy tình yêu thương của người mẹ:
    + Đó là khi đôi môi cắn chặt đến ứa máu ra nhưng chị vẫn thều thào nhắc nhân vật tôi lấy dây trong túi buộc rốn đưa bé lại. Khi nhân vật tôi đưa đứa bé đi tắm thì chị lại lo lắng rồi lẩm bẩm: “Coi khéo đấy nhé... cẩn thận”. Khi nhân vật tôi đưa đứa bé trở lại, bất chấp cơn đau quặn qua những tiếng rên và những tiếng thở dài, nhân vật tôi vẫn nghe thấy tiếng thì thầm hấp hối củ chị: Đưa… đưa… nó đây cho tôi. Hay là ánh mắt ấm ấp, chứa chan đầy tình yêu thương của chị nhìn khuôn mặt bé tí,phụng phịu của thằng bé đang nằm ngủ dưới bụi cây…
  + Nhưng hơn tất cả,tình yêu ấy còn được tác giả tập trung đặc tả qua đôi mắt, qua ánh mắt của người mẹ. Suốt thiên truyện, đôi mắt ấy được miêu tả tới 20 lần. Khi đau đẻ 5 lần, sau khi đẻ 15 lần: “Tôi thấy rõ đôi mắt sâu thẳm của chị tươi rói lên một cách kì lạ, cháy bừng lên ngọn lửa xanh biếc. …. Chị khẽ kêu lên một tiếng, im bặt, rồi lại mở mắt ra, đôi mắt đẹp vô cùng, đôi mắt thần thánh của người sản phụ.  Xanh biếc, đôi mắt ấy nhìn lên bầu trời xanh biếc, trong đôi mắt bừng lên và hòa tan một nụ cười hoan hỉ biết ơn… Mắt như hai hồ nước xanh mênh mông… đôi mắt phát ra những luồng ánh sáng ấm áp chứa chan tình thương… Đôi mắt ấy lại trong trẻo và sáng bừng lên với ngọn lửa biếc của tình thương không bao giờ cạn”.
Việc xây dựng hình tượng người mẹ khi đặt nhân vật vào tình huống đặc biệt để thể hiện quan điểm, người Mẹ: đấng sinh thành của tạo hóa, đấng Chí Thánh, chí Trinh. Với những phẩm chất đặc biệt để tạo ra “ Một Con Người ra đời” bằng tình yêu thương của cả thiên nhiên, đất trời, lòng người mà ở đây là nhân vật “ tôi” mang niềm hân hoan và hi vọng về tương lai của đứa trẻ  vùng đất Oren.
2.      Quan niệm về con người của Gorki được thể hiện qua hình tượng đứa trẻ ra đời:
2.1 Con người là tác phẩm của tạo hóa:
Thông qua hình tượng đứa trẻ, nhà văn đã gửi gắm những tư tưởng sâu sắc và sáng tạo về CON NGƯỜI.

Trong quan niệm của Gorki, con người trước hết là tác phẩm lớn lao của tạo hóa: “Cao cả thay cái chức vị là người trên trái đất...”. Mở đầu tác phẩm của mìn, Gorki đã dành ra 26 dòng để vẽ một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời, đẹp “một cách lộng lẫy đến hoang đường”. Đó là bức tranh với những gam màu tươi sáng: sáng long lanh, trắng xóa, vàng úa, vàng rực, nửa đỏ nửa vàng, xám lam, màu lục,... Đó là hình ảnh của dòng sông Kodor tung bọt nước, của những đám mây trườn trên các sườn núi, của chim gõ kiến rối rít nhảy nhót bắt sâu, của đàn sơn dương láu lỉnh và những con nhạn núi thong dong bắt mồi... Bức tranh thiên nhiên tràn ngập màu sắc, hương vị, âm thanh, khiến tác giả phải thốt lên ngợi ca rằng: “Về mùa thu, cảnh Kapkaz giống như một thánh đường tráng lệ dựng lên do những bậc hiền triết...”.
Song, những cảnh vật tươi đẹp ấy lại như một cái phông, cái nền của tạo hóa tạo ra, trưng bày ra để chuẩn bị đón “một con người ra đời”. Bức tranh thiên nhiên nước Nga lộng lẫy, mê đắm bởi trong cảnh có hồn, có tình. Khung cảnh tráng lệ kia quyến rũ lạ kì bởi được con người hân hoan tiếp nhận. Vẻ đẹp ấy là của tạo hóa ban tặng cho người mẹ sắp “khai hoa”. Một cuộc sinh nở - một con người ra đời đã được cả trời đất, sông núi, chim chóc, cỏ cây tưng bừng chào đón. Trong quan niệm của Gorki, con người là tác phẩm cao cả và đẹp đẽ nhất trên đời. Những chuẩn mực thiên nhiên chỉ bởi có con người mới trở nên sống động. Dương như tất cả đang mừng vui chào đón đứa trẻ sơ sinh đã thành một con người.
Và khi con người chào đời, “cả con chim gì kì diệu đang khẽ hót lên”, sóng biển rì rầm nghe du dương không biết chán, tiếng suối xa gần róc rách “như tiếng một thiếu nữ thủ thỉ kể chuyện người yêu với bạn gái mình”. Thiên nhiên lại một lần nữa góp phần tôn vinh sự cao cả, thiêng liêng trong khoảnh khắc “một con người ra đời”, càng khẳng định tư tưởng Gorki luôn coi con người là kiệt tác cao quý.
Quan niệm con người là món quà vĩ đại của tạo hóa còn được thể hiện qua khung cảnh đứa trẻ say ngủ sau khi vừa bú mẹ: “Nó nằm trên một lớp lá thu vàng rực, dưới một bụi cây không hề mọc ở tình Oren bao giờ”. Một không gian nghệ thuật mang đậm sắc màu hoang sơ thần thoại, thấm đẫm chất huyền diệu của những bài Thánh ca. Dường như hình ảnh đứa trẻ - con người ấy được so sánh ngang tầm với sự ra đời của chúa Jesu trên máng cỏ. Trong quan niệm của Gorki, con người thật cao quý và vĩ đại. Thiêng liêng thay hai tiếng CON NGƯỜI.
2.2 Mỗi con người ra đời đã mang trong mình những cá tính riêng biệt:
Quan niệm của Gorky về con người rất mới mẻ và táo bạo. Ông cho rằng con người từ khi sinh ra đã có những cái tôi cá nhân riêng biệt và mang trên vai trách nhiệm đối với chính cuộc đời của mình. Vì ý nghĩa nhân sinh cao cả đó mà nhà văn đã xây dựng nên hình tượng đứa trẻ sơ sinh – người công dân Oren mới tinh được ra đời trong một cuộc sinh nở khác thường. 
   Trong cuộc sinh nở khác thường và trần trụi với thiên nhiên ấy không thể không  nhắc tới “con người đỏ hỏn”, một “thằng dân Oren mới tinh” cũng rất khác thường. Vừa mới chào đời, nó “chưa chi đã bất mãn với cuộc đời”: “nó vùng vằng, giãy đạp và hét tướng lên, tuy cuống rốn vẫn còn dính vào mẹ”. Chỉ qua việc miêu tả một vài hành động, Gorky đã xây dựng nên một con người với đầy đủ cá tính riêng. Dường như công dân mới này muốn ngay lập tức khẳng định sức mạnh và cái tôi cá nhân khi những tiêng đầu tiên nó cất lên không phải là tiếng khóc oa oa như bao đứa trẻ khác mà là “Tao, tao”. Gorky có cách chơi chữ rất độc đáo khi biến tiếng khóc đầu đời của một đứa trẻ thành tiếng nói khẳng định cái tôi cá nhân: “ya ya” =>“Tao, tao”. Hình ảnh một đứa trẻ chào đời với những hành động tuy không quá lạ lẫm, song đã được những quan niệm cao đẹp của nhà văn thấm đượm, trở nên lạ kì, cao cả và thiêng liêng.
    Quan niệm về con người của Gorky còn được thể hiện rõ nét thông qua việc miêu tả ngoại hình và cách gọi đứa bé đầy âu yếm mà trân trọng. Mới chào đời, nhưng con người mới của vùng đất Oren đã mang một cá tính riêng biệt. Nó mang dáng dấp của một con người Nga với đôi mắt xanh biếc; và đồng thời nó cũng khẳng định mình là công dân Oren bằng chất giọng ồ ồ đặc trưng. Là một đứa trẻ mới chào đời, nhưng Maksim Gorky không gọi nó là “một đứa trẻ” hay “một hài nhi” mà đó là một CON NGƯỜI. Với ông, nhóc con Oren mới tinh ấy cũng là một con người mang ý nghĩa cao cả đích thực nhất. Nó thoải mái khóc, thoải mái vùng vẫy, thoải mái thể hiện tự do cá nhân trên một mảnh đất mới thay cho lời khẳng định: “Ta là một công dân Oren, một công dân của đất nước Nga. Ta không tự do, ta không run sợ”. Chẳng thế mà khi được nhân vật “Tôi” bế trên tay, đấng người đỏ hỏn ấy “siết chặt nắm tay và cứ thế gào mãi, như thể thách ai đánh nhau”. Gorki đã yêu mến, nâng niu, trân trọng và tin tưởng biết mấy khi đặt những trọng trách đầy thiêng liêng, cao cả của một con người vĩ đại lên đứa bé mới chào đời.
2.3Con người ra đời mang lại những sức mạnh diệu kì, thay đổi cuộc sống :
*Sự thay đổi củ nhân vật tôi từ lúc đỡ đẻ đến khi đứa bé ra đời:
Nhân vật tôi- cũng chính làg nười kể chuyện, chàng trai với tấm long nhân hậu sẵn sàng giúp đỡ người khác, biết cảm thông chia sẻ với nỗi đau cũng như niềm vui của đồng loại.
          Nhân vật tôi trong chuyến hành trình của mình đã trở thành bà đỡ bất đắc dĩ, chàng trai ấy chưa biết tí ti gì đến việc đàn bà và khi đỡ đẻ cũng không có bất cứ phương tiện dụng cụ gì cả “Tôi chạy ra biển, xắn ống tay áo lên, rửa sạch hai tay, quay trở lại và trở thành người đỡ đẻ” sẵn sang giúp đỡ một người xa lạ với một công việc – chưa từng làm – bao giờ. Chàng trai ấy bằng sự nhiệt tình và long nhân ái- mặc dù bị người sản phụ xua đuổi nhưng vẫn cố gắng giúp chị ta đỡ đẻ, thương con người ấy phải sinh nở trong hoàn cảnh khó khăn).
          Chàng trai từ chõ đau thắt lại đã sung sướng tột độ khi bế trên tay hài nhi đỏ hỏn “Và trên tay tôi một hài nhi đỏ hỏn”. Trên môi nó mấp máy và kéo rê tiếng “ya…ya” chào đời. Người đỡ đẻ chia vui cùng người mẹ, say mê ngắm tác phẩm của tạo hóa “mắt nó màu xanh nhạt, mũi nó tẹt một cách đến buồn cười, trên cái mặt đỏ tía, nhầu nhó, đôi môi mấp máy”. Đứa trẻ ấy chưa gì đã bất mãn với cuộc đời rồi, nó cũng vùng vằng và hét toáng lên. Người đỡ đẻ quỳ gối lên, nhìn nó và cười lớn “rất mừng được gặp chú bé” như giành trọn tình yêu cho đứa trẻ, vui mừng khi được chào đón một con người ra đời. Nói chuyện, tâm sự với đứa trẻ ấy “Ừ thì mày, mày. Chú mày phải tự khẳng định cho khỏe vào mới được, chứ không thì đồng loại ngoài kia sẽ vặt cổ chú mày…”, “Cứ làm ầm lên đi, chú bé Oren! Cứ gào toáng lên” nâng niu đứa con của tạo hóa bằng long yêu thương tha thiết. Có thể nói đó như câu hát để chào mừng một con người ra đời ra đời, cũng như là lời chúc mừng đến với người mẹ đã làm tròn thiên chức cao cả của mình.
*Sự thay đổi trong thái độ của người mẹ với nhân vật tôi:
Người mẹ ấy khi biết mình chuyển dạ sắp sinh và khi thấy một chàng trai lạ đến hỏi thăm mình đã mắng chửi chàng trai lạ “đi đi…không biết xấu hổ à…xéo đi”. Người phụ nữ ấy không xấu, nhưng để bảo vệ đứa con sắp sinh của mình- mặc dù chị đang gồng mình với cơn đau đẻ dữ dội nhưng vẫn liên tục mắng chửi, xua đuổi con người lạ mặt kia “ Đồ kẻ cướp… đồ quỷ sứ!...” , “ đi đi… đồ quỷ sứ…”, người mẹ ấy sợ con người lạ mặt kia sẽ cướp đi mất đứa con nhỏ bé của mình, nên càng ra sức xua đuổi, nói những lời khiếm nhã.
Thế nhưng càng xua đuổi thì chàng trai ấy càng không đi và dường như chàng trai ấy có ý tốt muốn giúp mình người mẹ ấy không những không mắng chửi xua đuổi chàng trai lạ nữa mà trái lại còn ra lệnh cho người đỡ đẻ đầy tin cậy như trao cho một nghĩa vụ thiêng liêng đó là cắt rốn cho đứa bé, người mẹ ấy giọng thều thào “ cắt đi…lấy dao…mà cắt…dây trong…túi…buộc rốn lại…”, đã không còn thái độ gay gắt với người đỡ đẻ ấy nữa và dần có sự tin tưởng hơn khi giao cho chàng trai đi tắm cho đứa con bé bỏng của mình và nhờ cởi hộ cái tay nải, long tin đối với chàng trai càng được nâng lên. Rồi người phụ nữ ấy giọng ngượng ngập khi không biết chôn cái nhau thái ở đâu trong khi giữ rừng hoang sâu thẳm không có nhà tắm (thường thì người ta quan niệm chôn nhau thai cạnh nhà tắm), lòng nặng trĩu và khẽ van nài, ngượng ngập “ nhờ anh, kĩ kĩ cho chút thật sâu vào, vì Chúa…anh thương lấy thằng con tôi mà làm cho cẩn thận tí”.
Họ cũng trở nên thân thiết hơn khi cùng nhau ngồi uống nước trà với mật, người mẹ ấy đã cởi mở hơn, chủ động hỏi chuyện, nói chuyện với chàng trai và cảm ơn sự giúp đỡ của chàng trai, không còn thái độ gay gắt với chàng trai như lúc đầu nữa.
Đứa trẻ ấy ra đời đã làm cho người gần người hơn, người mẹ không xua đuổi không còn định kiến với chàng trai kia nữa mà trái lại còn có sự tin tưởng hơn, họ cùng đi, cùng giành nhau bế đứa trẻ, sánh vai nhau trên đường, cùng đến một thành phố mới.
4.      Tổng kết
4.1 Khái quát lại quan niệm của Gorki về con người. So sánh với các nhà văn cùng thời, tìm ra sự sáng tạo độc đáo.
-         Tác giả đặt niềm tin vào con người :
Khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời, mọi người vui sướng, người mẹ tạ ơn chúa trời và hy vọng, mong muốn cho con: “lại chúa tôi, chúa tôi! Sung sướng quá, thích quá đi mất! Ước gì cứ thế này mà đi, đi mãi cho đến cùng trời cuối đất, và thằng con tôi cứ thế mà lớn lên, nép vào lòng mẹ mà lớn lên mãi trong cảnh tự do, con yêu của tôi . . .” Tác phẩm của ông toát lên lòng tin yêu con người,ca ngợi cuộcsống,mong muốnđấu tranh cho một tương lai tốt đẹp hơn.
-          Gorki là một trong những người đề xướng và cũng được tôn vinh là “bậc thầy” của Chủ nghĩa hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Nét đặc sắc trong sáng tác của Gorki là tình yêu nước Nga, yêu thiên nhiên Nga và đặc biệt là tình yêu con người. Tin yêu, thậm chí sùng bái con người, ông ca ngợi vẻ đẹp, tầm vóc lớn lao của con người và tạo nên những trang viết thấm đượm tinh thần nhân văn, gây xúc động lớn cho người đọc. Lòng trân trọng, tin yêu vô bờ bến của Gorki đối với con người là không thể đo đếm. Người mẹ cũng như nhà văn đều băn khoăn về tương lai của đứa trẻ khi hiện tại là bao chông gai, là lang thang, đói khổ. Nhưng họ cùng có chungmột mong ước về tương lai tốt đẹp cho chú bé, cho con người, mong ước con mình, mong ước con người được sống khoẻ khoắn, sung sướng trong tự do.
4.2 Nghệ thuật:
- Bút pháp hiện thực:
Trên cái ranh giới của sự hủy diệt của xã hội cũ và sự nảy sinh của một xã hội mới, một vấn đề bức xúc đặt ra cho văn học thời đại lúc này là vận mệnh nước Nga, số phận nhân dân Nga, con người Nga sẽ ra sao?
+ Tác phẩm phản ánh hiện thực đói kém của nhân dân Nga: cảnh đoàn người nông dân Nga bị nạ đói lùa ra khỏi quê hương, lang thang, phiêu bạt trên khắp các nẻo đường.
+ Hình ảnh người mẹ trong cơn đau đẻ vật vã được nhà văn miêu tả với bút pháp hiện thực theo nguyên tắc: “giống như thật”. Ngòi bút miêu tả tỉ mỉ, chi tiết đã “không bỏ sót một điều gì trong toàn bộ quá trình sinh nở của người mẹ: đau đẻ, trở dạ, cắt rốn, chờ nhau” (Nguyễn Hải Hà). Với mỗi chúng ta, với những người mẹ chuyện sinh nở có xa lạ gì đâu nhưng sao khi đọc những trang viết của Gorki ta chợt như thấy mình có thêm nhiều khám phá. Nỗi đau tột cùng, sự vật vã, quằn quại thể xác khi sinh con của nngườ.
=> Từ hiện thực đó, nhà văn muốn ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người Nga nhân hậu lạc quan, tin tưởng tương lai, kiên cường, có tình cảm gắn bó với quê hương. Tác phẩm khẳng định tình mẫu tử thiêng liêng trong đời sống con người.
- Bút pháp lãng mạn:
 Chỉ trong 26 dòng văn thơ đầu, tác giả đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời, đẹp “một cách lộng lẫy đến hoang đường” (cũng có nghĩa là đẹp một cách khác thường).
- Trong văn có họa. Đó là màu sắc đi gam  màu sáng tươi tắn: sáng long lanh, trắng xóa, vàng úa, vàng rực, nửa đỏ nửa vàng, xám lam, màu kục… Đó là hình ảnh của dòng sông tung bọt nước, của những tảng đá treo leo, của những cánh chim nhảy nhót, bay lượn, của những rặng cây, của những lá trúc đào ẩn hiện, của những đám mây.
- Trong văn có nhạc. Đó là âm thanh rì rầm của tiếng sóng biển, tiếng xô nhau của những đám bọt nước trên dòng sông Kôđor. Đó là tiếng kêu của chim âu và chim cốc, tiếng gõ của chim gõ kiến.
- Trong cảnh có vị. Đó là hương vị ngây ngất của  một thứ mật ong đặc biệt. Những con ong đã hút từ nhụy hoa nguyệt quế và nhụy hoa đỗ quyên. Theo lời kể chuyện, chất mật ong này “đã từng suýt gây tai họa cho cả một đoàn quân của Pômpê vĩ đại’ vì họ đã ăn thứ mật ong ấy để rồi say mềm ra.
- Trong cảnh có hồn, có tình bởi nhà văn đã nhìn cảnh vật bằng cái nhìn của con người nhìn về con người. Thế cho nên cảnh vật thật sống động, những con chim âu, chim cốc kia cũng biết “mắc cỡ mà kêu lên những tiếng hờn  dỗi”,  “mấy  con  sơn  tước  láu  lỉnh”,  “bóng  mây  trườn  đi”,  “con  ong  nổi  giận”, “những chiếc lá giống như những bàn ttay.
=> Chất lãng mạn đã chấp thêm cánh cho hình tượng con người trong sáng tác của  Gorki thêm  bay  cao bay  xa trong bầu  trời của tự  do, của  ước  mơ,  của cái  đẹp, cái thiện. Thế cho nên tác phẩm thì khép lại về mặt câu chữ nhưng lại mở ra cuộc hành trình của một cuộc đời đi tìm cuộc sống mới.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét