Đề tài: Trình bày
nguyên lí Tảng băng trôi Trong tác phẩm Ông già và biển cả của Hesmingway
MỤC
LỤC:
-Hemingway ( 1899-1961)
sinh ra trong một gia đình tri thức tại bang Illinois. Cha ông là bác sĩ, mẹ là
giáo viên dạy nhạc. Hemingway có năng khiếu âm nhạc từ nhỏ, nhưng cuộc phiêu
lưu du ngoại của người cha đã làm cho ông yêu thiên nhiên và thích thú vào những
chuyến đi. Năm 18 tuổi ông rời ghế nhà trường sau khi tốt nghiệp trung học và
đi làm phóng viên. Năm 19 tuổi ông tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất ở chiến
trường Italia bị thương và ngay sau đó trở về Hoa Kì. Ông thất vọng về xã hội
đương thời, tự nhận mình thuộc thế hệ mất mát, không hòa nhập vào xã hội đương
thời mà đi tìm bình yên trong men rượi và tình yêu, Hemingway sang Pháp vừa làm
báo vừa bắt đầu sáng tác. Năm 1926 ông cho ra đời tiểu thuyết Mặt trời vẫn mọc
và thực sự nổi tiếng trên văn đàn.
- Hemingway là nhà văn
Mĩ đề lại dấu ấn sâu sắc trong văn xuôi hiện đại Phương Tây và góp phần đổi mới
lối viết truyện, tiểu thuyết của nhiều
thế hệ nhà văn trên thế giới nói chung với lối viết kiệm lời, kiệm cảm xúc,…ông
đề ra nguyên lí sáng tác Tảng băng trôi, ông để cho người đọc tự mình khám phá
ra phầm chìm của tảng băng để thấy hết được những vẻ đẹp giá trị của nó. Tác phẩm
của ông dù viết về đề tài gì, vấn đề gì thì tất cả đều nhằm mục đích “ viết một
áng văn xuôi đơn giản và trung thực về con người”.
- Các tác phẩm chính: Hemingway
đã để lại cho nền văn học nước nhà một số
lượng tác phẩm đồ sộ,phong phú, có ý nghĩa đối với mỗi con người và thời đại.
Các tác phẩm của ông được viết trên rất nhiều thể loại.
Về truyện ngắn có tập Trong thời đại của chúng ta xuất bản năm
1925, Mặt trời vẫn mọc 1926, Giã từ vũ
khí 1929, Có và không năm 1937,…
Về tiểu thuyết : Chuông nguyện hồn ai, Qua sông vào rừng (
1950), Ông già và biển cả ( 1952),..
Ngoài ra con có tập thơ
88 bài, các tác phẩm hồi kí ghi chép thuộc thể loại không hư cấu: Những thác nước mùa xuân (1926), Chết trong
chiều tà( 1932),Những ngọn đồi xanh Châu Phi (1935),…
Hemingway đã được nhận
giải Pu-lit-dơ 1953 và giải Noben văn học
1954.
-Năm 1952 sau gần 10
năm sống ở CuBa, Heminguay cho ra đời tác phẩm “Ông già và biển cả”. Bối cảnh của truyện đó là một ngôi làng chài yên ả bên cảng
Lahabana. Nguyên mẫu của nhân vật Santiago là một người thủy thủ trên tàu của
ông. Trước khi in thành sách tác phẩm đã được đăng trên tạp chí đời sống. Tác
phẩm gây tiếng vang lớn và hai năm sau Heminguay được trao giải Nôben. Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho
lối viết “Tảng băng trôi” của Heminguay.
2.2. Chủ đề của tác phẩm
-
Ông già và biển cả của nhà văn Heminguay đã toát lên một chủ đề chính đó là
tình yêu, cái chết, sự thành công và thất bại của đời người.
2.3.
Tóm tắt tác phẩm
- Câu chuyện kể về một
nhân vật Santiago làm nghề đánh bắt cá, suốt 84 ngày liền ông không bắt được một
con cá nào. Cậu bé Manolin đi câu cùng ông lão trong bốn mươi ngày đầu nhưng
sau đó vì ông lão không đánh được cá nên bố mẹ cậu bé không cho cậu ra khơi
cùng với ông lão nữa. Vào ngày thứ 85 ông lão quyết định ra khơi trước khi trời
sáng. Lần này ông lão quyết định đi rất xa và lão cũng câu được một con cá kiếm
thật lớn, cực đẹp. Ông lão hồi hộp đến phút giây kéo được con cá khổng lồ trở về
bờ.Con cá quá khỏe đã lôi ông lão ra giữa biển khơi, vật lộn với con cá ba ngày
liền, ông lão kiệt sức và lão quyết định đâm chết nó. Nhưng trên đường về lão
phải chiến đấu với đàn cá mập đến ăn con cá kiếm. Cuộc chiến đấu không cân sức
và cuối cùng lão chỉ mang vào bờ bộ xương của con cá kiếm. Sau đó lão trở về lều
và nằm vật ra chú bé Mannolin gọi mọi người đến chăm sóc cho ông lão. Ông lão
ngủ thiếp đi và mơ về những con sư tử của mình.
Trong khoa học theo hiện tượng vật lí Tảng
băng trôi là một khối băng trôi tự do trên biển hay đại dương. Theo quy luật,
các tảng băng trôi được tách ra từ các khối băng lục địa. Bản chất của các tảng
băng trôi lần đầu tiên đã được giải thích đúng bởi nhà khoa học Nga. Mikhail
Lomonosov. Theo đó khối lượng riêng của băng là 920 kg/m³, còn khối lượng riêng
của nước biển — gần 1025 kg/m³, gần 90 % thể tích của tảng băng trôi nằm dưới
nước. Có thể nhận thấy tảng băng trôi đó dù có nổi trên biển thì cũng chỉ có một
phần nổi và toàn bộ phần còn lại đều ngập trong nước.
Hemingway
đã hiểu nguyên lí Tảng băng trôi trong khoa học và nhà văn đã vận dụng nó một
cách sáng tạo và độc đáo vào trong các
sáng tác sản phẩm văn học nghệ thuật của mình. Phần nổi là nội dung của tác phẩm được hiện rõ qua bề mặt của văn
bản.Nó được thể hiện qua hình thức thể hiện như độ dài, nhân vật, cốt truyện,..Đối
với phần chìm của tảng băng trôi là những quan niệm, tư tưởng cốt lõi, căn bản
tạo nên giá trị, thành công của tác phẩm. Phần này nhà văn không trực tiếp nói
ra hết mà chỉ đưa ra những thông tin gơi ý để mọi người tự đọc và tìm ra những
giá trị đó.
Hemingway
đã giải thích rõ về phong cách nghệ thuật của ông khi dùng nguyên lí “tảng băng trôi” để tạo nên các tác phẩm cho
mình. Trong cuộc phỏng vấn Hemingway đã trả lời: “Tôi luôn cố gắng viết theo
nguyên tắc Tảng băng trôi. Cứ bảy phần tám của nó chìm cho một phần
nổi. Bất cứ điều gì bạn biết mà bạn có thể loại bỏ thì nó chỉ làm tăng thêm sức
mạnh cho Tảng băng của bạn. Đó là những phần không được viết. Nhưng nếu nhà văn
bỏ qua điều gì đó bởi vì anh ta không biết, vậy thì sẽ có một lỗ hổng trong
truyện”. [1, 101].Hay một ý phát biểu khác của Hemingway về tảng băng trôi: “Tôi
có những cơn ác mộng và biết những cơn ác mộng mà người khác có. Nhưng bạn
không phải viết lại tất cả. Bất kì vấn đề nào bạn có thể bỏ mà bạn biết rõ về
nó thì nó vẫn hiện diện trong tác phẩm với hết thảy những phẩm chất, đặc điểm.
Khi nhà văn bỏ qua những gì anh ta không biết. Điều ấy sẽ phô ra những lổ hổng
trong truyện”. [1, 102].
Như
vậy Hemingway cũng đã phần nào vạch rõ ra cho chúng ta hiểu thế nào là một
nguyên lí tảng băng trôi. Để làm nên Tảng
băng trôi đó, nhà văn cần phải có những điều kiện, năng lực nhất định. Thứ nhất
nhà văn cần phải có một vốn tri thức phong phú sâu rộng trên tất cả mọi lĩnh vực,
những nội dung liên quan đến những điều mà ta cần phải viết. Và thứ hai nhà văn
phải lược bỏ những chi tiết không cần thiết, càng nhiều càng tốt, chỉ giữ lại
những chi tiết cốt lõi, hàm súc, cô đọng nhất. Xây dựng tảng băng trôi cũng
chính là một dụng ý nghệ thuật của tác giả và cũng chính điểm mà nhà văn muốn
hướng, hướng bạn đọc đồng sáng tạo nghệ thuật với mình. Có lẽ tảng băng trôi
chính là một lối viết văn kiệm lời nhưng
giàu hình tượng và từ chính hình tượng ấy mà người đọc có thể hình dung tưởng
tượng ra những gì mà nhà văn muốn nói, kiếm tìm trong văn bản những gì mà nhà
văn dấu đi, người đọc khám phá và tìm ra chân lí đó. Tùy vào khả năng, mức độ
hiểu biết và năng lực của người đọc mà họ có thể tìm kiếm đến đâu phần chìm của
tảng băng trôi hay chính dòng mạch ngầm của văn bản tác phẩm. Đây không chỉ dừng
lại ở thành công nghệ thuật của nhà văn Hemingway mà nó đã trở thành nguyên tắc
mẫu mực đối với một tác phẩm văn chương, nhà văn không trực tiếp nói lên những
suy nghĩ của mình mà tạo nên những ý tại ngôn ngoại thả bạn đọc vào thế giới
khoảng trống đó để họ cùng trải nghiệm và cảm nhận.
Phần
nổi hay chính là hình thức thể hiện của tác phẩm, là nghĩa tường minh, khi nhận
ra phần nổi ta có thể nắm ngay một cách khái quát vấn đề được nói tới trong tác
phẩm. Trong Ông già và biển cả thì phẩn nổi chỉ kể lại đơn thuần câu chuyện lão
đánh cá Santiago ra khơi đánh cá và câu được một con cá kiếm đẹp nhất đời. Lão
phải dốc sức chiến đấu với nó, khi đã thu phục được nó nhưng trên đường trở về thì lại bị đàn cá mập rỉa hết
và chỉ còn lại một bộ xương khô. Trở về lều lão ngủ và mơ thấy những con sư tử
của mình.
Mở đầu cho phần nổi của Tảng băng trôi trước
hết nó nằm ở chính nhan đề tác phẩm: “Ông già và biển cả”.Ngay ở cách đặt tên
ta cũng dễ dàng thấy được kĩ thuật viết theo nguyên lí “ tảng băng trôi”.Đây là
một nhan đề ngắn gọn nhưng súc tích và đầy đủ ý nghĩa bao quát hết toàn bộ nội
dung tác phẩm.Nhan đề ấy ngụ ý nhắc đến chuyến đi biển dài ba ngày hai đêm của
ông lão Santiago với hy vọng mong manh rằng lần này ông lão sẽ bắt được một con
cá to.Niềm mong ước mong manh ấy đã vô tình gặp được vận may và bất ngờ trở
thành hiện thực.Một con cá kiếm khổng lồ đã cắn câu.Qua đó đã nói lên sự đối
kháng quyết liệt giữa một bên là ông già thì yếu,nhỏ bé, cô độc, một bên là biển
cả thì mênh mông hung dữ, rộng lớn vô cùng.Ta có thể thấy đây là một nhan đề có
sức gợi sâu xa, dường như muốn nói đến ước mơ khát vọng của con người trước cuộc
đời rộng lớn.Trước biển đời con người ta đang phải vắt kiệt sức lực để chống chọi
với bão tố cuộc đời, để tự đứng lên, khẳng định vị thế của mình trong xã hội.Song
điều đặc biệt là Hêmingguay lại nói “Ông già và biển cả tức là muốn đem con người
đặt ngang hàng với thiên nhiên tạo vật.Đồng thời khẳng định tư thế chủ động của
con người trước thiên nhiên và cuộc đời đầy khó khăn, phức tạp, biến hóa khôn
lường.
Về độ dài của tác phẩm,
tác phẩm có độ dài 100 trang khoảng 27000 từ.Tuy số lượng ngôn từ hạn hẹp nhưng tác phẩm đã chuyển tải những lớp ý
nghĩa rất sâu xa.Nhà văn Mac-ket nhận xét: “ Những gì Hemingguay viết trong 100
trang sách đó những nhà văn khác có thể biến thành một cuốn tiểu thuyết dày
hàng nghìn trang”…
Nếu hiểu theo truyền thống
thì tác phẩm gần như không có cốt truyện.Bởi lẽ những chi tiết chính có thể tạo
nên cốt truyện đó chính là: sau 84 ngày đi biển không đánh được cá, ông lão
Xantiago lại ra khơi.Lần này ông lão lại câu được con cá kiếm khổng lồ và bị nó
kéo ra khơi xa.Sau đó ông lão chinh phục được nó và kéo nó vào bờ nhưng cuối
cùng nó chỉ còn lại một bộ xương bởi dọc đường đã bị một bầy cá mập tấn công.
“ Ông già và biển cả” là một tiểu thuyết rất
ngắn, số lượng nhân vật của tác phẩm cực ít.Theo C.Carey “ Ông già và biển cả”
có tám nhân vật( bao gồm cả cá kiếm và cá mập) song hiện diện trên hầu hết các
trang sách và là trung tâm của tác phẩm là nhân vật Santiago.Ba ngày đêm của cuộc
đời Santiago được tái hiện trong tác phẩm quá ngắn ngủi. Hơn nữa khi được đặt
trong không gian mênh mông về bản chất nhưng chật hẹp bởi thị lực con người: mặt
biển thì câu chuyện dường như diễn ra trong khoảnh khắc.Để ở đó ông lão vừa chiến
đấu vừa ăn, ngủ, nghỉ, vừa hồi tưởng, tự hào, lo âu….
Ông già giống như nhiều
ông già đi biển ta từng gặp trong đời – vóc dáng gầy guộc, gương mặt hằn sâu những
vết cắt thời gian, đôi mắt sáng trải đời, trải nghề… Ông có những suy nghĩ về
con người về thế giới độc đáo đến kỳ lạ để có thể tự mình xua tan bớt cô đơn. Sống
với biển gần trọn đời, ông biết biển không chỉ thuộc về ông mà còn thuộc về
chim cá, về những người dân chài… và mọi người, ai cũng có phần mình trong biển. Một mình trước biển khơi, trước cái bao
la vô cùng vô tận của trời của nước, người ta dễ có cảm giác rợn ngợp, bỗng thấy
mình bé nhỏ, không thể hoà đồng. Vậy mà Santiago lại cảm nhận được “ ở đời
không ai phải cô đơn nơi biển cả” và mãi mãi với ông biển đẹp, không thể xa rời.
Ông say mê nghề nghiệp – điều đó cũng thường thấy ở những người trạc tuổi ông,
trong hoàn cảnh sống như ông khi nghề nghiệp là cơm áo, là sự tồn tại. Bởi vậy,
ông phải gắng gỏi, phải hết mình. Đồng nghiệp thân thiết cũng là người bạn thân
nhất với ông là chú bé Manolin và ông chỉ có thể nhận được sự chăm chút đỡ đần
từ người bạn nhỏ duy nhất ấy. Những phút cô đơn, những khi hiểm nghèo ông chỉ gọi
Manolin, trong khi làng chài thật rộng, người làng chài thật đông… thế mới biết
quan hệ giữa con người với con người trong xã hội hiện đại bị thu hẹp đến chừng
nào. Tuy vậy, ông vẫn giữ mối liên hệ với cộng đồng, vẫn ý thức mình “ là một mảnh
của toàn thể”. Ông nhắc đến Pedrico, đến
người chủ quán, đến dân làng chài, khi tỉnh giấc sau ba ngày đi biển, ba ngày
cách xa họ.
Về hình tượng ông lão Sanchiagô trong cuộc chiến
với đàn cá dữ:
Xanchiagô trong cuộc
chiến với đàn cá dữ xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm, sau 3 ngày, 2 đêm vật lộn
vối sóng gió và việc kìm giữ con cá kiếm đã làm cho ông lão mệt nhoài.Cuộc chiến
lại diễn ra khi thời tiết khắc nghiệt, rất lạnh giá, vào lúc nửa đêm, khi ông
lão đang buồn, thậm chí đã rơi vào tình thế vô vọng.Nhưng bằng sự nhạy bén của
một ông già từng có nhiều kinh nghiệm nơi biển cả, ông lão đã huy động mọi giác
quan vào cuộc chiến.
Về thị giác: giữa đêm
đen giá lạnh, ông lão không nhìn thấy đàn cá mập, chỉ nhìn thấy các vệt nước,
ánh lân tinh..
Về thính giác lão cố thể
phỏng đoán hoặc nghe thấy tiếng ràng bập, tiếng chày gãy.
Về xúc giác: không trực
tiếp tiếp xúc với đàn cá nhưng cảm nhận được chúng qua một dụng cụ trung gian.
Qua đó, có thể khẳng định
ông lão Sanchiagô là một con người bình thường mà cao cả, ngay cả lúc tưởng như
đã kiệt sức và vô vọng vẫn chiến đấu đến cùng. Đó là biểu tượng về khát vọng vĩ
đại của con người trong cuộc sống: không gục ngã, không đầu hàng số phận.
Phần nổi của tác phẩm
còn được thể hiện qua các mối quan hệ giữa các nhân vật trong tác phẩm
Mối quan hệ giữa tâm lí
của ông lão và một phần đời tư của ông lão: một con người dũng cảm, khả năng chịu
đựng lớn; từng là nhà vô địch vật tay đang quyết bắt và bảo vệ con cá của mình
và một con người yếu đuối: cầu chúa giúp đỡ và mong có thằng bé bên cạnh…luôn đối
thoại với nhau bằng lời hoặc những suy
tư.
Quan hệ giữa ông lão và
thằng bé: thể hiện nốt phần đời tư của ông lão (tuổi tác, hoàn cảnh sống, thể
trạng…) và diện tiếp xúc chỉ gói trọn trong tình cảm ông lão dành cho chú bé
Manolin. Cặp nhân vật này cho thấy nét đầm ấm trong đời thường và cũng bộc lộ nỗi
cô đơn mà ông lão phải hướng về qua khứ qua hình ảnh chú bé,. Santiago yêu
thương chú bé hay cũng chính là yêu thương quá khứ của mình hóa thân vào đó.
Quan hệ giữa ông già và du khách: Santiago
không trò chuyện với bất cứ người đánh cá nào ở trong làng. Tính chất bất thường
này còn được ghi nhận ở hành vi xa lạ giữa những người du lịch với thành quả
sau ba ngày đêm của Santiago. Với họ, bộ xương cá Kiếm không tên như chính cuộc
sống vô danh của chủ nhân nó. Không có sự hiểu biết tất không có sự đồng cảm.
Cùng một không gian tồn tại nhưng số phận của mỗi con người tự đóng kín.
Qua cách miêu tả về ông
lão có thể hiểu thêm về nguyên lí “ Tảng băng trôi”.
Phần nổi của “tảng
băng” trong câu chuyện này là: ông lão nhỏ bé, yếu ớt, lại đang vò vọng trước
biến cả phải đương đầu với cả một đàn cá dữ khổng lồ. Kết quả, ông lão thất bại,
thành quả lao động bị cướp sạch.
Chính
là ý nghĩa rút ra được sau cuộc hành trình đầy gian lao, vất vả và anh hùng của
lão đánh cá. Nó thể hiện qua những hình ảnh biểu tượng độc đáo như hình ảnh con
cá kiếm, lão San tiago, con sư tử, đàn cá mập hay hình ảnh thiên nhiên. Cuộc
đánh cá của lão San tiago không chỉ dừng lại ở cuộc lao động bình thường để kiếm
sống mà đó là cuộc hành trình chinh phục thiên nhiên, con người gắn kết với
thiên nhiên, vượt lên trên hoàn cảnh, số phận của mình để giành lấy chiến thắng.
Đồng thời đó cũng chính là cuộc hành trình của nghệ thuật, phá bỏ cái cũ để tiến
đến cái mới hấp dẫn hơn.
Nét độc đáo trong nghệ
thuật thể hiện nguyên lý tảng băng trôi của Hemingway qua “Ông già và biển cả”
là nghệ thuật biểu tượng và ẩn dụ. Qua đó cung cấp khái niệm về biểu tượng, ẩn
dụ mà nét cơ bản của chúng là một sự so sánh ngầm.
Trên cở sở nền tảng lí luận về biểu tượng và ẩn
dụ, ứng dụng vào tác phẩm “Ông già và biển cả” của Hamingwey chúng tôi thấy được
biểu tượng và ẩn dụ là một hiện tượng có tầm khái quát cao và có nhiều tầng lớp
ý nghĩa sâu sắc ẩn sâu qua các hình tượng ngệ thuật từ đó diễn tả giá trị của
tác phẩm và tư tưởng nghệ thuật, thẩm mỹ của nhà văn. Trong tác phẩm “Ông già
và biển cả”, Hemingway đã xây dựng một hệ thông hệ thống hình tượng về con người,
thiên nhiên, sự vật…Nhưng điều đáng chú ý ở đây là những hình tượng này luôn vượt
ra ngoài khuôn khổ, nghĩa đen của nó, dựng nên một biểu tương, một ẩn dụ, một
huyền thoại.
Những hình tượng nghệ thuật giàu tính biểu
tượng trong tác phẩm như: Ông lão Santiago, Cậu bé Manolin, biển cả, cá Kiếm,
cá Mập, túp lều của ông lão, con sư tử, bóng tối,…nó mang lại ý nghĩa biểu tượng,
ẩn dụ rất lớn ở cả bề rộng và chiều sâu. Giáo sư Trần Văn Tửu cho rằng ở mức độ
cao hơn nó trở thành huyền thoại vì “Huyền thoại là hình ảnh tượng trưng với
quy mô lớn cả về bề rộng lẫn chiều sâu”. Nó là những câu chuyện do trí tưởng tượng
thuần tuý xây dựng nên, không thể xét đoán bằng lý trí hay những tiêu chuẩn
khoa học, nhưng thường cũng chẳng có các yếu tố hoang đường. Tất cả được sắp xếp
lại khiến người đọc luôn cảm thấy đằng sau các trang sách kia thấp thoáng nhiều
lớp nghĩa khác. Như vậy có thể thấy huyền thoại ở đây không phải là sự hư cấu bịa
đặt mà đó là sự thể hiện hình tượng nghệ thuật ở cấp độ cao hơn so với tượng
trưng. Và trong cuốn tiểu thuyết của Hemingway, Lê Đình Cúc đã cho rằng “Bút
pháp hiện thực là cơ sở cho bút pháp tượng trưng, bút pháp ấn tượng với những lợi
thế của chúng đã tạo nên tính đa thanh, đa nghĩa của tác phẩm”. Có thể thấy cho
dù những hình tượng nghệ thuật là biểu tượng, ẩn dụ hay là huyền thoại thì đều
được tạo nên bởi cơ sở nền tảng đó là giá trị hiện thực của tác phẩm, mà hiện
thực này lại được tác giả thể hiện qua phần nổi của tác phẩm.
Nghệ thuật biểu tượng và ẩn dụ đều dựa
trên phép thay thế so sánh song đó là một sự so sánh ngầm. Bởi thế, nó tăng độ
đậm đặc của hàm ý nghĩa, phát huy sự liên tưởng ở người đọc vượt ra ngoài khuôn
khổ, nghĩa đen của nó. Và đây cũng chính là cốt lõi của nguyên lí tảng băng
trôi.
Nguyên lí tảng băng
trôi được thể hiện qua các hình tượng biểu tượng và ẩn dụ:
·
Santiago là một ông lão điêu luyện trong
nghề nghiệp và luôn gắn bó với công việc của mình.
Xuất thân là một người đánh cá, suốt đời sống
bằng nghề đánh cá. Tài sản là một túp lều rách nát làm nơi trú ngụ sau những
chuyến ra khơi và con thuyền nhỏ, bộ đồ nghề để lao động. Ông có một kho tàng
kinh nghiệm nghề nghiệp và lòng yêu nghề vô hạn. Là một dân chài, cuộc đời của
ông đã bao nhiêu lần ra biển. Từ hồi còn trai trẻ ông là một người đánh cá mà cả
vùng biết tới. Họ biết ông ngoài danh tiếng của một người đánh cá có tay nghề,
còn là một thanh niên khỏe và rất dũng cảm. Khi ông nhớ lại trong cái đêm bị
con cá Kiếm kéo cả thuyền câu chạy rông trên biển, ông đã từng vật tay với một
người da đen khỏe nhất vùng. Trận đấu tay ấy kéo dài từ tối hôm trước đến sáng
hôm sau, và cuối cùng bằng sức mạnh cà lòng quyết tâm ông đã thắng. Bây giờ đã
già rồi nhưng ông lão mang theo trong mình ý chí quật cường và lòng quyết tâm
đó để ra khơi, mà theo ông là để làm cái nghề mình theo đuổi, nó có cả lòng
kiêu hãnh và “để khỏi chết đói”. Nhưng quan trọng nhất đối với ông “phải nghĩ đến
một điều, chỉ một điều thôi. Đó là mục đích mình sinh ra ở cõi đời này”. Trong
nghề đánh bắt cáSantiago đã đạt tới trình độ khéo léo và điêu luyện vào bậc
nhất. Chú bé Manolin yêu mến và kính phục ông già vô cùng, chú nói: “Có nhiều
người đánh cá giỏi và vài người vĩ đại nhưng ông là người duy nhất”. Công
việc đánh cá của Santiago được miêu tả một cách chân thực và sống động.
Từ việc đặt mồi vào lưỡi câu cho đến việc thả nhiều dây câu song song, rồi tính
toán khôn khéo sao cho cá dễ đớp mồi, sao cho cá nuốt gọn con mồi và kiên nhẫn
chờ suốt hai đêm ngày cho đền khi con cá kiệt sức. “Trước khi trời sáng rõ, lão
buông mồi và thả thuyền trôi theo dòng chảy. Một con mồi ở độ sâu bốn mươi sải.
Mồi thứ hai sâu tới bảy mươi lăm sải, mồi thứ ba và thứ tư chìm sâu hút trong
làn nước xanh đến độ sâu một trăm và một trăm hai mươi lăm sải. Mỗi con mồi được
móc ngược đầu xuống, lưỡi câu giấu trong thân cá mồi buộc chặt, khâu kĩ và những
phần thòi ra của lưỡi câu, đoạn cong và mũi nhọn thì được che bằng những con cá
mòi tươi rói. Chúng bị móc xuyên qua hai mắt tạo thành nửa vòng hoa trên cuống
thép. Không còn phần nào của lưỡi câu để con cá lớn có thể nhận ra ngoại trừ
hương vị thơm lừng quyến rũ”.
Ông
lão Santiago đã hành nghề với sự nhiệt tình, ham mê và tinh tế vô
cùng. Trình độ điêu luyện trong nghề nghiệp cùng với niềm say mê vô hạn ấy chỉ
có ở người nghệ sĩ có tâm hồn nồng cháy, yêu nghề nghiệp hơn cả bản thân mình.
Chính ông lão không lo nghĩ đến sự đói khát, nhọc nhằn cùng với những hiểm nguy
đang chờ mình, mà chỉ nhằm vào một mục đích duy nhất là bắt cho được con cá lớn
chưa từng thấy bao giờ. Sức kiên trì chịu đựng của ông cũng được thể hiện ở mức
độ phi thường khiến ông có phẩm chất cao cả. Tuổi già là một quy luật tất nhiên
nhưng không vì tuổi già mà ông lão đánh cá nhụt chí thậm chí ông càng quyết tâm
hơn vì tin tưởng ở khả năng, kinh nghiệm của mình.
Santiago suốt cuộc
đời lao động cần mẫn cho đến lúc tuổi già vẫn hăng say lao động. Ông ra biển
khơi câu cá để chứng minh rằng mình không bao giờ hết thời. Trên biển, Santiago đã
phải trải qua những cuộc chiến đầy can go và vô cùng gay cấn. Sau khi giết được
con cá Kiếm, Santiago còn phải đối đầu với đàn cá Mập đến ăn thịt cá
Kiếm. Mặc dù lúc này lão đã “rã rời đến tận
xương tủy” nhưng lão vẫn cố gắng chiến đấu với kẻ thù, hành động của lão rất
thành thạo.
Santiago là người
suốt đời làm nghề đánh cá mà không phải là đánh cá nghiệp dư hay đánh cá để giải
trí, chơi thể thao. Nghề nghiệp của ông, đánh cá nghĩa là để sống “mình đâu có hiểu gì về nó và mình cũng
không chắc là mình tin có tội lỗi. Có lẽ giết con cá là tội lỗi. Mình cứ cho là
thế, mặc dù mình làm điều đó để nuôi sống mình và nhiều người khác.” Santiago xác định mình là
người đánh cá thì phải làm tốt công việc mà mình phải làm khi làm người. Trong
quá trình đánh cá với tay nghề lão luyện Santiago đã thực hiện thật tốt
nhiệm vụ của mình. Ngoài đánh cá để kiếm sống, ông lão đánh cá còn một lí do
khác nữa đó là “lòng kiêu hãnh” cùng song song, tồn tại với ý chí và quyết tâm
làm tốt nghề mình đã chọn. Như vậy ông già là người đánh cá có tay nghề cao, với
ý thức trách nhiệm với nghề nghiệp của mình mặc dù tuổi cao, sức yếu nhưng bao
giờ ông cũng toát ra phẩm chất tốt đẹp của người lao động.
·
Ông là biểu tượng cho vẻ đẹp và sức mạnh
của con người.
Santiago suốt cuộc
đời lao động cần mẫn cho đến lúc tuổi già vẫn hăng say lao động. Sự khổ nhọc,
gian lao của cuộc sống đã hằn in lên thân hình của ông “ông lão gầy gò, giơ cả xương, gáy hằn sâu nhiều nếp nhăn. Những vết
nám vô hại trên làn da má của lão do bị ung thư bởi ánh mặt trời phản hồi trên
mặt biển nhiệt đới. Những vết ấy kéo dài xuống cả hai bên má, tay lão hằn những
vết sẹo sâu bởi kéo những con cá lớn. Nhưng chẳng có vết nào trong số sẹo ấy
còn mới cả, chúng cũ kĩ như mấy vệt xói mòn trên sa mạc không cá. Mọi thứ trên
cơ thể lão đều toát lên vẻ già nua, trừ đôi mắt chúng có cùng màu với nước biển,
vui vẻ và không hề thất bại.” mặc dù thân hình già nua, yếu đuối nhưng ông
lão có một sức mạnh tinh thần vô biên. Chi tiết đôi mắt màu xanh nước biển cho
ta thấy ở Santiagotoát lên một niềm tin, niềm hi vọng vào sức mạnh của bản
thân mình sẽ luôn chiến thắng chứ không hề thất bại.
Tác phẩm Ông
già và biển cả được dựng lên bằng những cuộc chiến đấu. Đó là những cuộc
chiến đấu vật lộn gay gắt giữa con người với thiên nhiên đầy chân thực. Từ đó
nêu lên được cái quyết liệt, tàn bạo của đời sống và khả năng chống trả của con
người. Santiago một mình ra biển khơi để lao động kiếm miếng ăn đồng
thời để khẳng định sức mạnh và niềm tin của mình ông đã phải trải qua những cuộc
chiến đấu gay go, quyết liệt trên đại dương mênh mông song nước. Cuộc chiến của
ông với con cá Kiếm với rất nhiều sự vật lộn giữa ông lão và con cá Kiếm, nhưng
hơn hết ông lão thể hiện quyết tâm của mình. Khi con cá lồng lên phô bày thân
hình to lớn cho ông lão thấy, ông càng quyết tâm giết nó “Ta sẽ giết nó, dầu cho con cá có vĩ đại và kiêu hãnh đến dường nào.”
Lão muốn cho con cá thấy sức mạnh của con người là vĩ đại hơn hết “mình phải cho con cá thấy những gì con người
có thể làm và khả năng chịu đựng của hắn.”
Với nghị lực và quyết
tâm ông đã giết được con cá khổng lồ. Ông lão đã chiến thắng, một chiến thắng
kì vĩ cho quyết tâm không thể gì lay chuyển. Đó là chiến thắng của con người
trên hành trình khẳng định sự sống, cũng trên hành trình ấy lão còn phải chống
đối với kẻ thù để bảo vệ giá trị lao động mà mình có được. Lão phải đương đầu với
đàn cá dữ, loài cá mập hung ác trong biển cả mênh mông. Cá mập xuất hiện ban đầu
là một con, sau đó là cả đàn. Nạn nhân trước hết là con cá Kiếm sau đó là ông
lão. Để bảo vệ thành quả lao động ông lão quyết tâm chiến đấu đến cùng nhưng
lão cũng không có nhiều hi vọng. “Bây giờ
đầu óc lão tỉnh táo, bình thản: lão có nhiều quyết tâm nhưng ít hi vọng.” Với
tâm trạng:“Lão chẳng còn muốn nhìn con cá
thêm chút nào nữa, kể từ lúc nó bị đớp toạc cả thịt da. Lúc con cá bị cắn thì
như thể chính bản thân lão cũng đang bị cắn.” Trong cuộc chiến đấuSantiago phải
gặp nhiều gian truân trên biển cả nhưng lão biết đưa ra những chân lí để vượt
qua tất cả. “Con người sinh ra không phải để thất bại.”, “Con người có thể bị
huỷ diệt chứ không thể bị khuất phục.” Chân lí đó đã khẳng định được sức mạnh
và ý chí của con người là lớn lao, là vô tận.
Máu cá Kiếm chảy ra, cá
Mập đánh hơi thấy kéo đến mỗi lúc một đông, cá mập hung dữ, đông, khỏe. Lão chiến
đấu giữ dội với đàn cá Mập, mặc dù đau đớn về thể xác nhưng lão vẫn cố gắng chống
chọi với tất cả sức lực của mình. Với quyết tâm và nghị lực lớn
lao Santiago đã vượt qua đau đớn và đói khát trong tâm niệm nóng bỏng
“đã sống làm người đau đớn có nghĩa lí gì”. Lão lao vào cuộc chiến không cân sức nên khi vào bờ thành quả
lao động của lão chỉ còn lại bộ xương. Bộ xương cá, đấy chính là tất cả những
gì còn lại sau cuộc trường chinh vất vả của ngư ông, là thành quả lao động của
một lần ra khơi hay của cả một đời phấn đấu gian truân.
Như vậy Satiago đã
có lòng tin, tin tưởng vào sức mạnh của mình, tin tưởng vào cuộc đời nên mới có
thể thu về con cá Kiếm khổng lồ ở ngoài tuổi tám mươi. Chính niềm tin của Santiago vào
cuộc đời, vào lí tưởng, vào những chân lí cuộc sống mà ông đã không bao giờ tuyệt
vọng. Lão cho rằng “Có mà ngốc mới không hi vọng.”, “Thêm nữa mình tin chắc
đấy là tội lỗi.” Santiago đã chiến thắng là vì lão biết nuôi hi vọng,
chiến thắng của lão không thu về của cải vật chất nhưng bù lại lão đã khẳng định
được niềm tin vào chính bản thân, khẳng định được sức mạnh của mình. Chiến thắng
của ông lão là chiến thắng tinh thần đã giành được thành quả lao động không phải
trải qua cái chết. Ông già vẫn sống trở về và không bi quan, thất vọng ông già
lại sẵn sàng sống tiếp những ngày còn lại để chờ đợi những vinh quang sẽ đến.
·
Lão Satiago biểu tượng cho sự cô đơn
trên hành trình đi tìm kiếm thành quả lao động.
Cuộc sống cô đơn của Santiago được
thông báo ngay từ dòng đầu tiên của tác phẩm “Lão đã già, một mình một thuyền
câu cá trên dòng Nhiệt Lưu.” Cuộc sống như vậy tất nhiên bắt buộc lão phải thu
về cuộc sống bên trong. Santiago đến bạn bè cũng không có, trừ chú bé Manolin,
nhưng mấy tháng trời đi không lại về không lão chẳng đánh được con cá nào nên bố
mẹ chú không cho đi với lão, bắt chú bé phải đi theo một con thuyền
khác. Santiago phải một mình cô độc ra biển khơi với một cuộc vật lộn
đầy gian khổ giữa con người với thiên nhiên, giữa sự sống và cái chết, giữa tấn
công hay lùi bước. Còn có không gian nào mênh mông hơn trời cao vô tận, biển
sâu hun hút, bốn phương bát ngát đều chẳng thấy đâu là bờ bến. Santiago đã
cô độc một mình cộng với không gian như thế ông lão càng cô độc hơn. Một
mình Santiago trơ trọi giữa trời biển ba ngày đêm mà mỗi giờ trong
hoàn cảnh ấy có thể đo bằng cả tháng. Nỗi cô đơn của Santiago càng
tăng lên khi không còn ai tâm sự. Nhiều lúc và nhất là khi gặp khó khăn, lão lại
nhớ đến chú bé Manolin và nói thật to rằng “giá
như mình có thằng bé”. Lão nói nhiều lần như vậy vì lão quá cô đơn nên lão
luôn ước có chú bé để cùng chia sẽ những vui buồn trên biển cả mênh mông, vô định.
Thế mới biết quan hệ giữa con người với con người trong xã hội hiện đại bị thu
hẹp đến chừng nào. Không còn ai để tâm sự lão đành tâm sự với bàn tay bị chuột
rút của mình, lão hỏi bàn tay bị chuột rút cứng đến mức gần như là tay của cái
xác chết lạnh ngắt “Mày cảm thấy thế nào
rồi hở tay?”, và lão động viên “hãy kiên nhẫn, tay à.”
Santiago cô đơn
nên ông tự tạo ra tất cả những gì có thể để chống lại sự cô đơn. Khi bầy cá Mập
xuất hiện lão nhắc nhỡ mình dùng mọi vật dụng như cái sào nhọn, cả cái chày và
hai mái chèo để làm vũ khí đánh nhau với chúng. Rồi lão còn suy nghĩ về danh thủ
bóng chày Di Maggio và khi tựa người vào ván mũi thuyền mà ngủ lão lại mơ thấy
những con sư tử bên bờ biển châu Phi.Santiago có những suy nghĩ về con người
và thế giới độc đáo đến kì lạ để có thể tự mình xua tan bớt cô đơn. Sống với biển
gần trọn cuộc đời, ông biết biển không chỉ thuộc về ông mà còn thuộc về chim, về
cá, về những người dân chài… và mọi người ai cũng có phần mình trong biển. Một
mình với biển khơi, trước cái bao la vô cùng, vô tận của trời của nước người ta
dễ có cảm giác rợn ngợp, bỗng thấy mình bé nhỏ, không thể hòa đồng. Vậy
mà Santiago lại cảm nhận được “ở đời chẳng có ai phải cô đơn trên
biển cả.” Và mãi mãi với ông biển là La mar (giống cái) không thể xa rời.
Khó ai có thể thoát khỏi cô đơn nhưng Santiago, ở góc độ nào đó là hình tượng
con người cô đơn chống lại sự cô đơn nhưng như thế ông lại càng cô đơn hơn. Con
người cô đơn này có một nghị lực sống phi thường, một khát vọng sống lớn lao,
biết vượt lên trên hoàn cảnh. Chính vì vậy mà Santiago xứng đáng được
trân trọng, xứng đáng được ca ngợi.
Như vậy, ông lão
Satiago là một biểu tượng về con người cho đến giờ phút cuối cùng vẫn đuổi theo
một kì vọng và ráng sức đoạt lấy nó. Bởi vậy, cuộc săn bắt cá của ông là một ẩn
dụ về hành trình thực hiện khát vọng, dù đơn độc và thất bại, âm hưởng gợi lên
lạ đầy sinh khí và ấm áp, mãnh liệt. Mặt khác, khi nhìn nhận về hình tượng
Satiago từ ngoại hình bên ngoài đến phẩm chất, Hemingway còn mang đến cho người
đọc những cảm nhận về hình tượng con người biểu tượng, ẩn dụ được toát lên từ
hình tượng chúa Giesu. Từ đó cho ta thấy quan niệm mới mẻ của tác giả trong
quan niệm về Chúa và về tôn giáo. Có lẽ ông cho rằng những bậc vĩ nhân hay thần
thánh không phải ở đâu xa mà chính là ở những con người bình thường, có niềm
tin, ý chí, nghị lực như ông lão Santiago. Qua đó nhận thức về con người về cuộc
sống, con người ai cũng có thể trở thành huyền thoại nếu họ hiểu được ý nghĩa của
cuộc sống và ý nghĩa của sự tồn tại.
·
Ở góc nhìn thiên nhiên:
Con cá kiếm là đại diện cho hình ảnh của thiên nhiên:
Con cá Kiếm không chỉ là “đối tượng” săn bắt, không chỉ là đối thủ “giằng
co”, mà nó còn là “bạn”, là người anh em đối với ông lão Santiago. Trước lúc
phóng lao khi miệng “khô khốc” mệt nhoài, khi đã đuối sức, lão nói với con cá
kiếm bằng tất cả tâm tình: “ mày đang giết tao, cá à…Tao chưa bao giờ thấy bất
kì ai hung dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy
đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyên ai giết ai…”. Cá Kiếm hiện lên
vừa đẹp đẽ vừa dữ tợn, vừa là người bạn vừa là kẻ thù của con người.Hình
tượng cá kiếm biểu tượng cho vẻ đẹp và sức mạnh của tự nhiên: “Sợi dây cứ lững thững, điềm tĩnh nhô
lên và lúc mặt biển vỡ toang phía trước thuyền, con cá tung mình lên. Nó nhô
lên bất tận, nước đổ ròng ròng từ hai bên lườn. Thân hình bóng nhẫy trong ánh nắng;
đầu và lưng tím sẫm; trong ánh nắng, những đường sọc hai bên mình nó nom đồ sộ,
phớt hồng. Cái kiếm của nó dài bằng gậy bong chày, thon như một lưỡi kiếm, nó
vươn hết độ dài than mình lên khỏi mặt nước rồi nhẹ nhàng lao xuống như một tay
thợ lặn; ông lão nom thấy cái đuôi hình lưỡi hái đồ sộ chìm xuống và sợi dây
câu lại hút theo”. “Nó dài hơn chiếc thuyền khoảng chừng năm sáu tấc”.
Cá kiếm là biểu tượng của
thiên nhiên. Giữa con người và thiên nhiên vẫn có quan hệ “anh em”, dù đôi khi
thiên nhiên là kẻ thù số 1 của con người. Con người chinh phục tự nhiên cũng
không quên yêu mến và sống hài hoà với nó. Cần phải tôn trọng tự nhiên cũng như
tôn trọng kẻ thù.
·
Ở góc nhìn cuộc sống con người:
Con cá vừa to lớn vừa đẹp đẽ, nó lại là đối tượng săn đuổi của lão
Xan-ti-a-gô. Con cá là hình ảnh của ước mơ, lí tưởng mà mỗi con người thường
theo đuổi trong cuộc đời.
Hình tượng cá kiếm biểu
tượng cho ước mơ và khát vọng to lớn trong cuộc đời mà mỗi con người thường đeo
đuổi. Ở nó toát lên vẻ đẹp cao thượng, uy dũng, hiên ngang, bất khuất trước hiểm
nguy đe doạ tính mạng. Ngay đến chết cũng phải chết một cách đàng hoàng. Xây dựng
hình tượng con cá kiếm, tác giả muốn đề cao vẻ đẹp cao thượng trong cuộc đời.
Bên cạnh đó tác giả còn
đưa đến mối quan hệ giữa ước mơ và hiện thực cuộc sống: Hình ảnh con cá kiếm trước khi ông lão chiếm được nó thật đẹp đẽ; nhưng
khi ông lão chiếm được thì “da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc, sang
màu trắng bạc…mắt nó trông dửng dưng…”. Phải chăng đó là hình ảnh của sự
chuyển biến từ ước mơ sang hiện thực, nó không xa vời khó nắm bắt, và cũng
chính vì thế mà nó không còn đẹp đẽ, huy hoàng như trước.
·
Ở góc nhìn nghệ thuật: Hình tượng cá kiếm
biểu tượng cho ước mơ sáng tạo không ngừng nghỉ.
Với hình tượng bộ xương
của ca Kiếm, nhìn từ góc độ của người đánh cá mưu sinh bình thường thì ông
Santiago hoàn toàn thất bại. Nhưng xét về ý nghĩa của hành động khảng định sự tồn
tại của mình, thì ông lão đã chiến thắng. Dưới con mắt của du khách thì bộ
xương rõ ràng là vô nghĩa lí. Nhưng đối với cậu bé, nó lại là chiến công. Với
những người người đánh cá, nó là đối tượng của thương hại và khâm phục. Còn với
ông lão, chắc hẳn nó phức tạp hơn nhiều. Ở đây, con cá kiếm chỉ còn lại bộ
xương nó là biểu tượng cho thành quả lao động của một đời người, trước mắt
thiên hạ chỉ còn lại rất ít. Từ đó nó quy chiếu ở góc nhìn về một tác phẩm nghệ
thuật: Tác phẩm nghệ thuật với sự hoàn mĩ của nó, cái mà nhà văn theo đuổi có
khi chỉ còn lại bộ xương mà người đời không thể hiểu hết được. Cá Kiếm là ẩn dụ
của cái đẹp, long thuỷ chung và dũng cảm, kiên cường.
Trong tác phẩm, hình tượng
biển cả và ông lão Santiago luôn song hành với nhau. Biển cả là biểu tượng cho
thiên nhiên vừa hiền hoà, vừa dữ dội, vừa đẹp đẽ, vừa dịu dàng nhân hậu nhưng
cũng độc ác, tàn bạo và nguy hiểm. Biển cả là nơi mà ông lão đang tồn tại, là
nơi cưu mang ông nhưng cũng đồng thời là nơi thử thách ông. Hình tượng biển cả
được biểu hiện như một sinh thể vừa đẹp, có hồn và chứa đựng rất nhiều thử
thách, nhiều bất ngờ, trắc trở đến tàn bạo. Chính ông lão đã nhận xét về biển cả:
“đại dương tử tế và rất đẹp. Nhưng nó có thể rất độc ác và tráo trở bất thình
lình”.
Biển là nơi mà ông lão
hướng tới, nơi ông làm việc, thể hiện tài năng và để sinh tồn, nhờ biển ông có
thể bắt được những con cá , nó là công việc là cuộc sống của lão. Ông chinh phục
biển cả bằng tất cả khả năng của mình, nhưng đồn thời biển cả cũng chinh phục
ông lão bằng tất cả sức mạnh và vẻ đẹp của nó. Cuộc chiến đấu giữa ông lão và
con cá Kiếm đã thể hiện rõ điều đó.
Biển cả là hiện thân của cái đẹp, là biểu tượng
cho cái đẹp của tự nhiên. Ông lão là con người biết nhìn nhận, khám phá, phát
hiện và biết trân trọng cái đẹp. Còn biển chính là đối tượng là hiện than của
cái đẹp để ông lão tôn vinh, chiêm ngưỡng, phán xét. Đối với cảm nhận của ông
lão thì mọi thứ trên biển đều đẹp, kể cả cá Mập nhưng trừ bộ hàm sắc nhọn của
nó.
Mặc dù ông lão Satiago
lang thang trên biển một mình, tưởng rừng như cô đơn nhưng ở đây ông lão không
thấy cô đơn,ông coi biển cả là bạn là nhà. Nếu như ở trên đất liền, giữa xã hội
loài người ông lão là con người cô độc, tự mình xa lánh mọi người và bị mọi người
xa lánh, ruồng bỏ thì ở trên đại dương, ông lại tìm thấy niềm vui và cảm thấy
tâm hồn sảng khoái tự do như cánh chim bằng tung cánh trên khoảng không bao la.
Cuộc sống xã hội với nhiều áp lực, con người đã tìm đến thiên nhiên để giải toả
nó, coi thiên nhiên là người bạn,người tâm sự. Con người bé nhỏ tồn tại trong
không gian của vũ trụ mênh mông nó làm nổi bật tầm vóc của con người. Mặc dù nhỏ
bé giữa không gian của biển cả bao la, nhưng con người đã làm chủ không gian ấy
từ đó nâng con người ở một tầm vóc lớn lao, kì vĩ như biển cả.
Sự hiện diện của ông
lão trên biển cả nó còn biểu tượng cho mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
giữa đại dương bao la và đất liền. Ở đây, ông lão chính là biểu tượng cho con
người, cho hình ảnh đất liền còn biển cả chính là hình tượng của thiên nhiên, của
đại dương. Từ đó thể hiện mối giao hoà và thống nhất, biển cả là nơi cưu mang
nâng đỡ ông lão cả về vật chất và tinh thần. Là nơi mà ông lão giãi bày, tâm sự
gắn bó giống như một người bạn tri kỉ. Trước biển cả rộng lớn mọi suy tư, tâm
trạng nặng nề chán nản về cuộc đời đều được giải toả, biển cả trở thành điểm tựa
cho ông lão. Biển là nơi ông lão làm việc, chỉ khi ở trên biển ông lão được thoả
sức tung hoành với niềm đam mê của mình, ở đó không có sự bó buộc, rào cản như ở
trong đất liền mà nó tự do, phóng khoáng, không bị ràng buộc ở bất cứ thứ gì.
Hình tượng biển cả mang
ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ độc đáo. Biển cả là biểu tượng cho khung cảnh kì vĩ
tương ứng với hoạt động sáng tạo của con người, biển cả là môi trường tìm kiếm
bao la và đầy khó khăn của người nghệ sĩ.
Đây là hình tượng mang
ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ chứa đựng những ngụ ý sâu xa của tác giả
Hình tượng chú bé
Manolin ít xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm. Chú bé chỉ xuất hiện trong phần
đầu trước khi ông lão ra khơi và ở phần cuối khi ông lão đi biển trở về qua các
mảng đối thoại và được nói tới trong thời gian ông lão ra khơi qua những lời độc
thoại nội tâm của ông lão trên biển.
Chú bé như là một điểm
tựa, điểm vươn tới của ông lão. Manolin như điểm tựa tinh thần của lão. Mỗi lần
ông thất bại trở về, ông lão lại được chú bé chăm sóc, động viên và an ủi. Chú
bé luôn thần tượng ông lão bởi tài năng, sự điêu luyện trong nghề đánh cá, cùng
với những phẩm chất tốt đẹp. Ông là một con người đáng kính, con người chân
chính trong công việc và cuộc sống. Nhưng với tất cả người dân trong làng chài ấy
không ai còn tin tưởng ông lão nữa thì chính cậu bé là người có niềm tin vào
ông hơn ai hết. Vì cậu hiểu ông lão qua những lần đi cùng ông. Cậu biết rằng
ông lão là người dũng cảm, có ý chí, chính vì vậy mà cậu chưa bao giờ nghi ngờ
sức mạnh, tài năng nghề nghiệp điêu luyện của ông lão. Cậu bé luôn có sự đồng cảm
và chia sẻ từ đó tạo thêm niềm tin tưởng, sức mạnh giúp ông lão vượt qua thử
thách.
Hình tượng chú bé
Manolin là biểu tượng cho hình ảnh của tương lai, hình ảnh của thế hệ nối tiếp.
Nó hiện lên như một niềm khát vọng, ước mơ có người bầu bạn giúp đỡ, chia sẻ để
đi tới chiến thắng. Trong ba ngày chiến đấu trên biển thì đã có nhiều lần ông
lão nhắc tới chú bé “giá mà có thằng bé ở đây nhỉ?” Ông muốn nhắc đến chú bé để
thức tỉnh bản thân, phải cố gắng chiến đấu giành thắng lợi vì vẫn còn một người
luôn tin tưởng và hy vọng vào sự thành công của ông lão. Mỗi lần gọi tên là một
lần nhắc nhở thức tỉnh, tạo thêm sức mạnh để ông lão chiến thắng.
Hình tượng chú bé Manolin là biểu tượng, ẩn dụ
cho niềm tin vào tương lại, vào thế hệ nối tiếp. Những con người của thế hệ mới
này sẽ tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn, trong sáng như chính tâm hồn của cậu
bé.
Sau khoảng thời gian rất
dài chiến đấu với con cá Kiếm thì lúc ông thành công cũng là lúc ông phải đương
đầu với khó khăn và thử thách mới, đó là bầy cá Mập. Được miêu tả với nhiều lớp
cắt thông qua hành động của cá Mập và tâm trạng của ông lão. Cá Mập xuất hiện từ
từ, đầu tiên là một con cá Mập “ngoi lên
từ phía biển sâu khi đám mây màu đen sẫm được hình thành rồi lan nhanh xuống
vùng nước sâu hơn ngàn thước. Nó bơi lên rất nhanh và hoàn toàn bất cần đến mức
đã xé tung mặt nước xanh thẳm, nhao mình trong ánh nắng. Thoáng chóc, nó rơi
tõm xuống biển, bắt mùi hơi theo chiếc thuyền và con cá”. Từ những dấu hiệu
và hành động của con cá đã cho ta thấy sức mạnh và sự nhạy bén, đặc biệt của
con cá Mập: “Nó là loài cá mập Mako cực lớn,
cơ thể được cấu trúc để bơi nhanh như bất kì loài cá nào bơi nhanh nhất trên đại
dương”. Và thông qua lời của ông lão thì cá Mập không chỉ có sức mạnh, nhạy
bén mà nó còn hung dữ và có phần đáng sợ: “mọi
thứ trên người nó đều đẹp, chỉ trừ bộ hàm…chúng không là những chiếc răng bình
thường, có hình kim tự tháp như răng của những loài cá mập khác. Hình dạng
chúng như những chiếc tay của con người quắp lại khi bị chuột rút. Chúng dài bằng
ngón tay ông lão và sắc bén cả hai mặt”.
Cá Kiếm là ẩn dụ cho
cái đẹp, còn cá Mập là hình ảnh tượng trưng cho cái xấu, lòng tham. Và có lúc
cái xấu đã lấn át cả cái tốt. Bầy cá Mập đớp sạch cá Kiếm và đánh bại ông lão.
Tuy nhiên, với bản thân ông lão, ông không cho đó là chiến thắng mà chỉ là mơ.
Ông coi con cá Kiếm như một người bạn, một con người theo đúng nghĩa và trở
thành tri kỉ của ông. Vì vậy, với việc cá Mập ăn hết thịt con ca Kiếm ông chỉ “Đớp đi, Galanos. Và hãy mơ như bọn mày đã
giết chết một con người” (tr. 111)
Có thể nói, sự xuất hiện
của đàn cá Mập trong truyện ngoài việc thể hiện được tính cách, sự đối lập với
số phận cá Kiếm và hình tượng ông lão, trong cách nhìn nhận mở vấn đề thì hình
tượng đàn cá Mập còn biểu tượng cho ẩn ý rất sâu sắc về con người và xã hội.
Đàn cá Mập biểu tượng cho những thế lực hung hãn phá hoại lao động mà con người
phải đối phó. Việc ông lão đánh cá, bắt cá, cư sử với thành quả lao động của
mình (con cá Kiếm) là một sáng tạo và sự xuất hiện của đàn cá Mập lấy đi hết mọi
thứ tốt đẹp nó biểu tượng cho những lực lượng phá hoại sáng tạo của con người.
Ở trong tác phẩm, hình
tượng đàn sư tử trên bờ biển không được khắc hoạ nhiều như hình tượng lão
Santiago, cá Kiếm…nhưng đó là hình tượng biểu tượng vô cùng độc đáo và mới lạ,
qua đó giúp người đọc hiểu thêm về con người của ông lão.
Khi nói về chú bé
Manolin, ông lão có nói là bằng tuổi thằng bé, trên con thuyền đến Châu Phi “lão thấy những con sư tử trên bờ biển vào
buổi tối” (tr. 14). Về sau, lúc đã già, vợ đã qua đời “lão không còn mơ về bão tố, về phụ nữ, về những sự kiện, những con cá
lớn, về những trận đánh, những cuộc đấu sức hay vợ lão. Bây giờ lão chỉ mở về
những vùng đất và những con sư tử trên bờ biển. Chúng nô đùa như những chú mèo
con trong hoàng hôn, lão yêu chúng như yêu thằng bé” (tr.17).
Đàn sư tử là tượng
trưng cho sức mạnh, cứ trở đi trở lại trong những giấc mơ của lão như chứng
tích của thời kiêu hùng, thời lão được gọi là nhà vô địch. Tuổi đã già sức đã cạn
nhưng trong tâm trí lão không bao giờ ngôi ngoai về quá khứ kiêu hùng đó. Cho đến
bây giờ lão vẫn mơ về nó, vẫn khao khát có thể làm được những việc mà mình đã
làm trong quá khứ, trên hết vượt xa ngoài công việc đánh cá lão muốn khảng định
sự tồn tại của mình thể hiện ý chí, quyết tâm không bao giờ lụi tàn của ông lão,
luôn khoa khát và chưa bao giờ nguôi hi vọng.
Hình tượng này nói đến
vùng đất Châu Phi, đàn sư tử mang trong mình dòng máu của xứ sở này. Hemingway
đã từng sống ở Châu Phi và ông hiểu về mảnh đất này, điều này liên quan đến tên
gọi “thế hệ vứt đi”, trong sang tác của Hemingway các tác phẩm của ông thường
hướng về thiên nhiên xa xôi ngoài nước Mĩ, ở đây là Châu Phi.
Đến cuối tác phẩm, khi
thiếp đi trong thất bại năng nề, sau bao vật lộn vất vả lão lại mơ về đàn sư tử. Hình tượng này không
chỉ biểu tượng ẩn dụ cho sức mạnh, dũng cảm mà
nó còn được nâng lên cuộc sống thành đức tin của ông lão. Chỉ khi ngủ
ông mới mơ về nó và khi đó ông mới thấy cuộc sống thực sự có ý nghĩa. Đàn sư tử
chính là điểm tựa tinh thần của ông lão, giúp ông vượt qua sau những thất bại.
TIỂU KẾT:
Như vậy, thông qua các
hình tượng: ông lão Santiago, con cá Kiếm, cá Mập, chú bé Manolin, đàn sư tử,…Ta
thấy được nét đặc trưng của nguyên lí tảng băng trôi, một phần nổi bảy phần
chìm. Để người đọc là người đồng sáng tạo tác phẩm cùng với nhà văn đưa ra những
tầng ý nghĩa độc đáo sáng tạo. Việc sử dụng các hình tượng mang ý nghĩa biểu tượng,
ẩn dụ đã đưa tác phẩm lên một tầm cao mới, thể hiện tài năng cái riêng của tác
giả thông qua nguyên lí tảng băng trôi. Làm cho tác phẩm ẩn chứa nhiều lớp màn
bí ẩn. Với việc sử dụng nghệ thuật biểu tượng ẩn dụ đã làm nổi bật nguyên lí tảng
băng trôi và qua đó tạo nên tính đa nghĩa cho tác phẩm với bao ẩn ý sâu xa thấm
thía.
Điểm đặc biệt trong tác
phẩm về ngôn từ của Hemingway tưởng chừng như đơn giản nhưng thật ra nó lại khiến
người đọc suy nghĩ rất nhiều, ngôn từ ấy làm cho ta chìm đắm trong thế giới nội
tâm của nhân vật. Và qua những dòng nội tâm ấy mà ta nhận thấy biết bao nhiêu
triết lí về cuộc sống con người..Dường như đây cũng chính là nét sáng tạo, đổi
mới trong cách viết của Hemingway, ông không ôm đồm quá nhiều các sự kiện tình
tiết, những biến cố mà đi sâu quan sát, tập trung làm nổi bật đến ý thức diễn
biến tâm trạng của các nhân vật. Trong các tác phẩm của mình nhà văn không miêu
tả tâm lí của nhân vật một cách gián tiếp mà nhà văn để cho họ tự bộc bạch nói
đến suy nghĩ và hành động của mình. Lẽ đó mà trong các tác phẩm của ông chúng
ta thường thấy có rất ít lời kể chuyện của tác giả, nó xuất hiện chỉ như phương tiện để dẫn dắt bạn
đọc hướng vào nhân vật, còn quan trọng chính là ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật.
Hình thức thể hiện tâm trạng, ý thức của nhân vật được Hemingway sự dụng chủ yếu
là thủ thuật đối thoại và độc thoại nội tâm. Việc xen kẽ hai phép đối thoại và
độc thoại nội tâm xuất hiện nhiều trong các tác phẩm tiểu thuyết như Chuông
nguyện hồn ai, truyện ngắn Một nơi sạch sẽ sáng sủa chỉ có vài trang nhưng có cả
chục lời đối thoại giữa hai anh bồi bàn trong quán rượi.
Và trong tác phẩm Ông
già và biển cả ngôn ngữ có sự kết hợp giữ
người dẫn chuyện và ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật thông qua đối thoại và độc
thoại nội tâm.
Trước tiên là về đối
thoại. Đối thoại chính là hình thức đối đáp, trò chuyện giữa hai hay nhiều người
và trong tác phẩm Ông già và biển cả thì đối thoại dường như rất giản đơn, nó
thể hiện chủ yếu qua cuộc nói chuyện của ông lão với cậu bé Manolin và chủ đề của
cuộc nói chuyện xoay quang công việc đánh bắt cá của ông lão chuyện nó không được
theo ông ra biển bắt cá nữa do cái vận đen của ông,. Ta có thể đến một số lời đối
thoại như sau
“-Ông
Santiago-thằng bé gọi
-
ừ - ông lão đáp. Lão đang giữ cái li và hồi tưởng về nhiều năm trước
-
Cháu đi kiếm cho ông mấy con cá mòi cho ngày mai nhé?
-
Đừng đi chơi bóng chày đi. Ông vẫn có thể chèo và Rogelio sữ quăng lưới
-
Cháu thích đi. Nếu cháu không được câu cá với ông thì cháu muốn giúp ông việc
gì đó.”
Hay cuộc đối thoại thể
hiện tình yêu, sự quan tâm của cậu bé dành cho ông lão nhắc nhở ông phải mặc ấm,
hay đem thức ăn từ Terrace về cho ông lão
“-
Ông ơi dậy đi- thằng bé gọi và đặt tay lên đầu gối ông lão. Ông lão mở mắt ngơ
ngác một lúc rồi mới tỉnh hẳn. rồi lão mỉm cười
-
Cháu có cái gì đấy- lão hỏi
-
Đồ ăn tối- thằng bé nói – chúng ta sẽ ăn tối
-
Ông không đói lắm đâu
- Thì cứ ăn vậy. ông không thể
không ăn mà bắt cá được
- Vẫn cứ câu được- ông lão nói lúc
đứng dậy cầm tờ báo gấp lại.Rồi lão chuẩn bị xếp mền.
- Ông cứ quấn quang người- thằng bé
nói- trong lúc cháu còn sống thì ông không cần phải nhịn đói mà đi câu cá.
- Vậy hãy sỗng cho thật lâu và quan
tâm tới bản thân mình- ông lão nói- chúng ta ăn gì vậy?
- Đậu đen. Cơm, chuối chiên và ít
thịt hầm
Những lời khâm phục của cậu bé trước
tài năng của lão “Có nhiều người đánh cá giỏi và vài người vĩ đại nhưng ông là
người duy nhất”.
Hay
khi chú bé muốn đi kiếm mồi cho ông lão đánh cá:
“Để cháu đi kiếm mấy con tươi”.
“Một thôi”, ông lão nói.
“Hai” thằng bé nói.
“Hai” ông lão đồng ý “Cháu không ăn
cắp đấy chứ”
“Cháu không” thằng bé đáp “Cháu
mua”
“Cảm ơn cháu”, ông lão nói.
Cả
ông lão và chú bé đều rất kiệm lời. Mỗi lời được nhân vật nói ra đều rất ngắn gọn,
xúc tích, ít lời nhưng nhiều ý. Vì vậy khi đọc tác phẩm mỗi người lại có một cảm
nhận riêng về những lời đối thoại này, từ đó tạo ra sức gợi rất lớn từ bề mặt
ngôn từ của tác phẩm.
Ø Như
vậy chỉ cần điểm qua vài cuộc trò chuyện ta cũng phần nào nhận thấy ông lão là
người tốt bụng, có tài trong việc đánh bắt cá, cậu bé Manolin yêu quý ông và
kính thể trước con người ông. Từ ngôn ngữ đối thoại xúc tích nhưng giàu sức gợi
đã làm nổi bật tình yêu thương chân thành giữa con người với con người. Khảng định
con người sẽ chẳng bao giờ cô đơn nếu biết mở lòng yêu thương với sự trân thành
từ trong tim.
Trong
tác phẩm đối thoại chỉ xuất hiện như để giới thiệu những nét bề ngoài của nhân
vật, chưa thực sự lột tả hết những suy nghĩ của nhân vật vì thế nhà văn chêm
xen vào đó lối độc thoại nội tâm. Và đây cũng là một trong những thủ pháp quan
trọng thể hiện bản chất, con người của ông lão Santiago.
Độc
thoại nội tâm là lời phát ngôn của nhân vật với chính mình thể hiện tiếp quá
trình tâm lý nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc suy nghĩ của con người trong
dòng chảy của nó. Đây là một trong những thủ pháp nghệ thuật độc đáo của nhà
văn, là hình thức mà chính bản thân nhân vật dùng ngôn ngữ độc thoại của chính
mình để nói lên những suy nghĩ, bộc lộ quan niệm, những nỗi niềm trăn trở, suy
tư trước một vấn đề nào đó xảy ra. Đó là ngôn ngữ mang tính chất tự sự, diễn tả
lời nói sâu kín bên trong một cách chân thực. Sự dụng độc thoại nội tâm chính
là dụng ý của tác giả, họ muốn dùng độc thoại để xây dựng nên hình tượng nhân vật
của mình, bày ra trước mắt bạn đọc những tính cách, đặc trưng và bản chất của nhân vật. Có thể nói độc thoại nội
tâm chính là cái chìa khóa vạn năng để nhân vật tự mở rộng cánh của tâm hồn của
mình, bộc lộ chân thành con người của mình một cách sinh động và phong phú.
Trong
tác phẩm Ông già và biển cả nhà văn rất thành công thủ pháp nghệ thuật sử dụng
ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Nhà văn không tham gia trực tiếp vào câu chuyện,
không dùng ngôn ngữ kể chuyện của mình để kể lại câu chuyện, nhà văn đã nhường
sân khấu lại cho nhân vật của mình, ông để nhân vật của mình tự nhiên hành động,
tự nhiên trải nghiệm, khám phá, và nói lên những ý nghĩ của chính mình. Trong
tác phẩm này ngoài những trang mở đầu giới thiệu nhân vật, không gian xung
quanh thì toàn bộ tác phẩm đều tập trung vào nhân vật trung tâm Santiago, chuyến
ra khơi đánh bắt cá và những câu chuyện của ông trong chuyến đi câu đó. Xuyên
suốt những trang viết đó là những dòng độc thoại nội tâm kéo dài của ông lão.. Nội
dung độc thoại nội tâm trong tác phẩm phong phú đa dạng, tuy nó tản mạn mà
không rời rạc, lão Santiago suy tư bám sát các sự việc xảy ra theo một trình tự
thời gian từ trước cho đến sau ba ngày đêm. Nhưng cũng có lúc dòng độc thoại nội
tâm của ông lão lại đưa bạn đọc vừa có thể trở về quá khứ, nhưng rồi ngay tiếp
đó lại hướng con người ta đến với tương lai. Nhưng rồi độc lạ hơn khi những suy
nghĩ độc thoại ấy khiến cho ra bay vào giấc mơ của ông lão, với những giấc mơ đẹp
với những đàn sư tử của ông, khi ông mệt
mỏi mà ngủ thiếp đi. Dường như nhà văn không muốn để cho nhân vật của mình một
chút nghỉ ngơi thư thái trong đầu óc, nhân vật của ông luôn sống luôn suy nghĩ,
nó diễn ra dồn dập ông lão nghỉ hết điều này đến điều khác. Rời đất liền một
mình lênh đênh cô độc trên biển để chống lại nỗi cô đơn đang bủa vây lấy mình
lão nhìn trong không gian trò chuyện với chim, cá đại dương và vầng trăng. Nhìn
con chim nhạn bay qua ông cũng cất tiếng hỏi nó “ mày bao nhiêu tuổi hả chim? Phải chăng đây là cuộc bay vượt biển của
mày”. Trên biển tất cả những gì biết cử động đều là bạn thân của lão, kể cả
cái bàn tay bị trượt rút của mình.
Nhưng
có lẽ khoảng thời gian lão lênh đênh trên đại dương mênh mông độc thoại nội tâm
được lão phát ra nhiều nhất trong cuộc đối thoại, vật lộn chiến đấu với con cá
Kiếm. Và độc thoại nội tâm ở đây ngắn và đứt đoạn nhưng vẫn thống nhất. Khi chiến
đấu với cá Kiếm, ông luôn đứng và ghì chặt lấy dây câu, con cá không ngừng bơi,
và mỗi khi nó đổi hướng thì sợi dây câu lại cứa vào vai ông lão. Lúc này ông vừa
mệt, vừa đau nhưng vẫn phải kiên cường để đối phó với con cá. Và trong khoảng
thời gian này độc thoại nội tâm ngắn ông nói về những hiện tượng ông trông thấy,
lời động viên bản thân, những lời nói với con cá đối thủ của mình…nhưng những
đoạn độc thoại này lại bị ngắt, xen kẽ giữa lời nói đó là hành động đối phó với
con cá. Nhân vật độc thoại nội tâm ngay trong khi làm việc và hai hành động này
cùng diễn ra và tồn tại song song ở một con người. Đây là nét nghệ thuật độc
thoại nội tâm độc đáo của Hemingway.
Độc thoại nội tâm của lão Xantiago diễn ra với
nhiều hình thức linh hoạt đa dạng, có khi đó chính là lời nói trực tiếp của lão
với cụm từ quen thuộc đi cùng như “ lão
nghĩ bụng”, “ lão tự nhủ”, hay xuất hiện dưới lời của nhà văn thuật lại lời
nói đó.
Sau
khi thả mồi đợi chờ con cá Kiếm cắn câu lão đã phải nài nỉ mong con cá nhanh
chóng cắn câu “Ăn đi, cá. Đớp mồi đi. Xin
hãy đớp mồi đi”. “ tiếp tục đi. Hãy quay lại thử ngửi xem. Chúng không hấp dẫn
sao? Ăn ngay đi cả con cá thu nữa. cứng mát lạng và hấp dẫn. Đừng xấu hổ cá à
ăn chúng đi”. Qua lời nói của ông lão ta nhận thấy con cá Kiếm rất khôn
ngoan và không dễ bị lừa, nó thông minh đến nỗi ông lão phải bỏ danh dự của
mình để mà cầu xin nó cắn câu. Nhưng với ông lão đó chính là một nghệ thuật
trong việc đánh cá thủ thuật đầu tiên phải tiếp xúc với con mồi, tìm hiểu nó và
rồi mới từ từ tấn công. Cá Kiếm khôn ngoan đến đâu nhưng cuối cùng cũng phải mắc
vào lưỡi câu của ông lão nhưng lão không cảm thấy mình đã chiến thắng nó mà lão
thấy mình như bị mắc câu bởi con cá “ ta
đang bị con cá lôi đi, và ta là cái trụ kéo thuyền”. Vì danh dự của mình đặt
ra mà lão không nới dây câu, lão cứ bám chặt lấy sợi dây mặc sức kéo đi của con
cá và lão đã phải chống chọi với nó thật ác liệt… “ đừng nhảy cá”- lão nói “ đừng nhảy” rồi lại ôn tồn nói với nó “Cá này”-
lão khẽ gọi rồi nói lớn,- tao sẽ cầm cự với mày cho đến chết” (tr. 44). “- Cá này, -lão nói, -tao yêu quý và rất ngưỡng
mộ mày nhưng tao sẽ giết chết mày mày trước khi ngàykết thúc”. Con cá đã được
nâng lên ngang tầm với con người, trở thành đối thủ tương xứng của ông lão “Mày
là anh em của ta. Nhưng ta phải giết mày” (tr. 51).
Đến
ngày thứ ba con cá bắt đầu nổi lên và lượn những vòng tròn rất lớnvà cuộc chiến
của ông với con cá trở nên căng thẳng nhất. Để đối đầu với những vòng tròn khủng
khiếp ấy của con cá ông lão đã phải dốc cận lực sức của mình Lão “dùng cả hai tay, lắc người, dốc hết lực của
cả cơ thể của chân trụ ra mà kéo”. Trong cuộc chiến ấy có thể lão sẽ thua
nhưng không hề chi “ cá này- ông lão nói cá này dẫu sao thì mày cũng chết. mày muốn tao
cùng chết nữa à” hay “Mày đang giết
tao, cá à, -ông lão nghĩ. –Nhưng mày có quyền đó. Chưa bao giờ ta gặp vật gì vĩ
đại, đẹp đẽ, bình thản, cao thượng hơn mày, người anh em à. Hãy đến giết ta đi.
Ta không quan tâm ai giết ai”. Lão dồn tất cả sức của mình chiến đấu với
nó, nhưng Santiago một lão đánh cá đã già sức khỏe cũng đã có hạn, sau hai giờ
đồng hồ kéo Cá ông lão đã mệt thấu xương, và những vòng lượn của con cá cũng trở
nên hẹp vào. Lão thấy mình kiệt sức lão thấy mình hoa mắt, chóng mặt và choáng
váng. Và độc thoại nội tâm cũng nhiều hơn lão trấn tĩnh, tự động viên mình: “Ta không thể tự chơi xỏ mình và chết trước một
con cá như thế này”. Lão không chỉ hoa mắt bởi sức khỏe yếu dần mà lão con
choáng ngợp trước vẻ đẹp của con cá kia, lão ngạc nhiên khi thấy độ dài của nó.
Một con cá kiếm khổng lồ “ cái đuôi của
nó lớn hơn cả chiếc lưỡi hái, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẳm.
nó lặn xuống và khi con cá còn mấp mé mặt nước ông lão có thể nhình thấy thân
mình đồ sộ và những sọc tím sẫm trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ
vây to bên sườn đang xòe rộng”. Con cá lại tiếp tục lượn vòng lão Santiago
lại càng mệt nhưng lão vấn thách thức con cá
“ mày phải giữ đầu óc tỉnh táo. Hãy giữ đầu óc tỉnh táo và biết cách chịu đựng
như một con người. Hay như một con cá- lão nghĩ” nhưng càng lúc thân người
lão càng mệt rã rời, lão tự gọi mình “ đầu
ơi hãy tỉnh táo- lão nói bằng giọng mà bản thân hầu như không còn nghe nổi- hãy
tỉnh táo” Lão cảm thấy “mình sắp ngất
đi”, hai tay lão “đã rã rời và mắt
lão chỉ có thể nhìn rõ được từng lúc mà thôi”, lão cảm thấy “xây xẩm cả mặt mày” nhưng lão vẫn cố gắng
tự nhủ với mình “Không mày khỏe, lão tự
nhủ. Mày sẽ luôn khỏe”. Lão đã kéo được con cá vào mạn thuyền, lão dồn mọi
đau đớn và sức lực còn lại vận hết sức lúc bình sinh, phóng ngọn lao vào trúng
tim con cá. Con cá đã chết, máu từ tim nó loang ra, “làm máu đen sẫm trông như bãi cát ngầm trong làn nước biếc sâu hơn
ngàn thước. Rồi nó lan rộng tựa đám mây”. Lão Santiago đã chiến thắng
con cá bằng tất cả sức mạnh và trí tuệ của mình. Nhưng niềm vui của lão đánh cá
không trọn vẹn, lão vui bao nhiêu thì lão lại càng day dứt, đau khổ bấy
nhiêu “Ta đã giết con cá, người anh em ta” (tr. 86). Và dù trước đó đã mạnh
mẽ khẳng định “Con người ta không thể
sinh ra để thất bại. Con người ta có thể bị hủy diệt chứ không thể bị khuất phục”.
Nhưng trong thâm tâm của lão vẫn mặc cảm đầy tội lỗi, lão thông cảm với nó và cảm
thấy tiếc nuối khi phải tiêu diệt nó “Mình
đã không giết con cá nếu không vì sự sống còn và thực phẩm, - lão nghĩ- Mình giết
con cá vì danh dự bởi mình là người đánh cá. Mình yêu quý nó, khi nó còn sống
và vẫn yêu quý sau khi nó chết. Nếu mình quý nó thì chẳng có tội lỗi gì khi giết
nó. Còn gì khác nữa?” “Nghề câu cá hại mình y hệt như nuôi sống mình” . Qua
dòng nội tâm của ông lão ta thấy lão vừa là nghệ sĩ tài hoa chính trong nghề
nghiệp của mình, lão khéo léo, khắc phục mọi khó khăn cản trở để đi tới đích cuối
cùng và lão cũng là người anh hùng chiến
đấu kiên cường trên mặt biển nhưng bên cạnh đó sâu trong tâm hồn lão vẫn là một
con người đầy tình yêu thương, tình yêu thương ấy không chỉ dành cho con người ,cho
cậu bé Manolin mà lão còn yêu cả sự sống của muôn loài. Nhưng vì cuộc sống , vì
sự tồn tại mà ông lão bắt buộc bản thân mình phải hành động như vậy. Cá kiếm là
hình ảnh tươi đẹp đại diện cho thiên nhiên, và ông lão trên đại dương ấy thể hiện
mối quan hệ của con người với thiên nhiên, cho biển cả mênh mông rộng lớn, ông
lão trên biển ấy hòa mình cùng thiên
nhiên, chinh phục thiên nhiên và khẳng định tài năng và sức mạnh của mình.
Tuy
nhiên có một điểm đặc biệt trong những nội dung độc thoại nội tâm của lão đánh
cá đó chính là độc thoại nội tâm được chuyển hoá, nó mang dáng dấp của một cuộc
độc thoại, độc thoại nội tâm trở thành độc thoại bởi những lời độc thoại nội
tâm của lão đôi khi được phát ra trực tiếp. Ông lão thường nói lớn đối thoại với
chính bản thân mình. Và từ đó độc thoại nội tâm trở thành cuộc đối thoại ngầm
bên trong của nhân vật.
“Mày
giết con cá không phải để tồn tại, để kiếm ăn, lão nghĩ. Mày giết nó chỉ vì
lòng kiêu hãnh và bởi vì mày là một người câu cá. Mày yêu nó khi nó còn sống và
ngay cả khi nó chết. Nếu mày yêu nó thì sẽ chẳng có tội khi giết nó. Còn gì
khác nữa?”
“Mày
nghĩ nhiều quá, lão già ạ”, lão nói lớn.
“Mình
giết nó vì sinh kế” lão nói lớn “Và mình đã hạ được nó”
“Ngoài
ra lão nghĩ, vạn vật sát hại lẫn nhau không bằng cách này thì bằng cách khác.
Nghề câu cá hại mình như thể nó nuôi sống mình”.
Việc chuyển hóa này làm cho câu chuyện trở nên
sinh động hơn, hấp dẫn hơn. Lão không chỉ đối thoại với chính mình mà với mọi đối
tượng thiên nhiên, với con cá Kiếm, với chim, với biển, chú bé Manolin… nhưng
ông lão không nhận được câu trả lời. Đây là điểm đặc sắc trong nguyên lý tảng
băng trôi của Hemingway-đối thoại một chiều. Lão chỉ cần mình nói và không cần
câu trả lời vì lão đủ kinh nghiệm để hiểu những gì lão nghĩ và nói.
Ø Qua
sự phân tích trên ta thấy được ngôn từ độc thoại nội tâm trong “Ông già và biển
cả” hết sức phong phú và đa dạng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau
từ đó thể hiện nét độc đáo, mới mẻ về độc thoại nội tâm đem lại nét riêng trong phong cách sáng tác của
Hemingway.
Như vậy, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại
nội tâm đã tạo cở sở quan trọng cho thành công của nguyên lý tảng băng trôi
trong tác phẩm. Mỗi câu mỗi từ đều tính xác, ngắn gọn, cô đọng tạo lên hình tượng
con người vừa tầm vóc phi thường về tâm hồn nhưng lại vô cùng đời thường ở sự
chân thật và giản dị. Chính điều đó đã tạo nên những biểu tượng lớn với nhiều tầng
ý nghĩa về con người, về lão Santiago- chân dung một ông lão đánh cá kiên cường.
Lão không chỉ là con người lao động bình thường mà là một nghệ sĩ tài hoa ngay
trên chính công việc của chính mình. Trên mặt trận biển cả ấy con người ấy có
thể bị đánh bại bất cứ lúc nào nhưng lão đánh cá đã vượt lên trên tất cả hoàn cảnh,
sức khỏe, thiếu thốn, chiến đấu hết mình và giành chiến thắng bằng sức mạnh của
chính bản thân mình, khẳng định vị trí của con người trong vũ trụ.
Một
biệt tài trong phong cách viết của Hemingway trong nguyên lí tảng băng trôi đó
là việc tạo khoảng trống. Khoảng trống được thể hiện rõ nhất trên cấp độ của
ngôn ngữ. Khoảng trống đó do nhà văn tạo ra và bạn đọc phải cất công tìm tòi và
lấp đầy những khoảng trống đó. Trong tác phẩm khoảng trống được thể hiện qua những
lời độc thoại của ông lão Santiago. Ví dụ như khi miêu tả đoạn ông lão sắp
chinh phục được con cá sau những ngày đêm lôi nó đi trên biển ông lão nói “Ta đã di chuyển được nó, ông lão nói. Ta đã
di chuyển được rồi”. Không có một lời dẫn rõ ràng, không một lời chú giải về
thái độ của ông lão nhưng chúng ta vẫn nhận thấy và cảm nhận được sắc thái mừng
rỡ, phấn khởi của ông lão. Sự phấn khởi ấy thoát ra từ cách nói, từ kết quả hành động mà mình đạt được
chứ không thuyết minh qua lời thoại của mình. Và để lấp chỗ trống ấy người đọc có thể thêm vào đó những tính từ
như ông lão vui vẻ, phấn khởi, mừng rỡ. Chẳng
hạn câu “.....lão thấy trong ánh nắng, những
tia nước từ sợi dây câu bắn ra. Thế rồi sợi dây thoát đi mất....”. Giữa hai
câu đó có một khoảng trống, nhà văn đã không giải thích tại sao sợi dây câu đó
thoát đi. Bởi vậy mà bạn đọc có thể khôi phục lại “khoảng trống” đó như sau: “....Lão thấy trong ánh nắng, những tia nước
từ sợi dây bắn ra. Lão sợ sợi dây câu đứt nên buông ra. Thế rồi sợi dây câu
thoát đi mất...” Nếu nhà văn giải thích như vậy thì lối văn chương như thế
không thể có chỗ đứng trong lòng độc giả và sẽ nhanh chóng bị lãng quên. Hay
khi lão nói “con cá là vận may của ta”.
Ý đó cũng cho ta nhận thấy sau 84 ngày đêm lão chưa câu được con cá nào và mọi
người xung quanh cho rằng lão đã bị vận đen đeo bám. Và hình ảnh con cá kiếm đã
thay đổi số vận của ông lão, ông tin vào chính mình và chiến thắng.
Một
biện pháp mà Hemingway sử dụng để tạo nên khoảng trống trong tác phẩm đó là loại
bỏ tư duy liên tục của nhân vật, chỉ giữ lại những suy nghĩ mang tính cốt lõi,
giàu sức gợi. Khi ông lão nhìn thấy con cá Kiếm bị đàn cá Mập Ma-ko đớp mất gần
hai mươi cân thịt thì người kể chuyện không miêu tả bất cứ một thái độ, cảm xúc
nào, nỗi xót xa day dứt trong lòng ông lão mà để chỉ cho lão thốt lên từng lời
mang đậm chất triết lí “Cái quá tốt đẹp
thì chẳng bền”. Triết lí này không
phải do chính tác giả đặt cho nhân vật, cũng không phải do nhân vật nhận ra mà
nó là quy luật, là triết lí có sẵn. và trong câu chuyện ông lão chỉ vận dụng để
động viên và an ủi chính bản thân mình rằng việc không bảo vệ con cá kiếm là
quy luật tất yếu mà ai cũng biết. Qua đây bạn đọc cũng dễ liên tưởng tới thân
phận của ông lão ông là một con người có khát vọng, có ý chí một con người - “Người nuôi khát vọng lớn quá”. Lão quyết
tâm bắt cho được con cá khổng lồ xứng đáng với tài nghệ của lão thì sẽ không dễ
dàng thực hiện được ( khi lão trở về bờ chỉ còn có bộ xương không).
Tìm
hiểu tất cả mọi chi tiết, hình ảnh trong xây dựng nhân vật, rồi lại loại bỏ những
chi tiết không cần thiết, giữ lại những gì gây được ấn tượng mạnh mẽ để tạo nên một không gian-
khoảng trống trong tác phẩm là thao tác kĩ thuật để nhà văn Hemingway thực hiện
nguyên lí tảng băng trôi của mình. Trong suy nghĩ của nhà văn có tới tám phần
thì những gì xuất hiện trên bề mặt tác phẩm chỉ là một phần nhỏ trong tám phần ấy.
Nhà văn lấy cái cực nhỏ để hướng tới những cái lớn hơn là một trong những
nguyên tắc tảng băng trôi.
Nguyên lý tảng băng
trôi đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sáng tác của Hemingway.Nguồn gốc
Tảng băng trôi được kết hợp theo công thức: Chất liệu+Loại bỏ+Hư cấu. Chất liệu
của tác phẩm ngấm vào máu thịt của nhà văn và ông lược bỏ những thứ mình đã biết
để tạo nên mạch ngầm cho tác phẩm. Nguyên lí tảng băng trôi giúp tạo nên những
khoảng trống để người đọc liên tưởng. Phần nổi thì chỉ một mà bảy phần tám thì
chìm để giúp bạn đọc đồng sáng tạo cùng với nhà văn. Tùy vào quan niệm và cách
nhìn của mỗi người mà tác phẩm lại có những tầng ý nghĩa khác nhau.
Nguyên lí tảng băng trôi
chỉ ra một phương pháp nghệ thuật mới lạ, độc đáo tập trung chủ yếu vào cách viết
ngắn gọn, hàm súc, ngụ ý chỉ mạch ngầm văn bản hay các lớp nghĩa chưa được phô
bày trực tiếp trong tác phẩm. Nó giúp tác phẩm trở nên lôi cuốn hơn vì bạn đọc
được tò mò, được liên tưởng, được phép sáng tạo.Điều này khiến tác phẩm không bị
xem là loại văn chương sáo rỗng mà tăng được các lớp nghĩa cho văn bản. Hình ảnh
ấy chẳng những đã minh họa cho phong cách Hêmingway mà nó đã tóm tắt yêu cầu đối
với một áng văn chương thực sự có giá trị, đặc biệt đối với độc giả thế kỷ
XX. Thoạt nhìn, ngôn từ ở đây thường rất
ngắn gọn và đơn giản, điều này đặc biệt thể hiện qua một loại ngôn từ mà người
ta coi là sở trường của ông, ngôn ngữ đối thoại. Đối thoại rời rạc, khó hiểu ấy
không đơn giản chỉ hứng thú của nhà văn, mà thường gắn bó với kiểu nhân vật
Hêmingway họ không trần tình, bộc lộ tâm tư mà thường khi lại giấu kín nó. Muốn hiểu hết đối thoại của nhân vật
Hemingway, nhiều khi phải đọc cả những im lặng và nhập hẳn vào văn cảnh của họ
nữa. Chính điều đó thể hiện một cách rõ nét sự lao động nghệ thuật và sáng tạo
trong văn chương của ông là hoàn toàn nghiêm túc. Đây là yếu tố quan trọng tạo
nên một nhà văn chân chính với những tác phẩm đi mãi cùng năm tháng.
Trong sáng tác nghệ thuật,
tính đa chiều kích là nguyên tác mà bất kì nghệ sĩ nào cũng cần hướng tới. Nhà
văn sẽ chẳng nói được gì khi ngôn từ nghệ thuật của anh ta câm lặng, dẫu cho
ngoài đời anh ta rất có tài diễn thuyết, hùng biện. Loại bỏ, hư cấu, xây dựng
quan hệ, biểu tượng, huyền thoại và khai thác tính nước đôi… là cách chắp lời
cho ngôn từ, là phương pháp sáng tạo độc đáo của Hemingway. Có hồi ông ví cái
phần nổi núi băng của mình như một ngọn lửa, ngọn lửa nhỏ và ông lại “nén nhỏ
nó xuống, xuống thấp cho đến lúc bất thình lình một tiếng nổ vang lên. Nếu
không có gì khác ngoài tiếng nổ ấy, thì tác phẩm của tôi sẽ hấp dẫn đến mức
không một ai lại thích nó”. Hemingway đã thực hiện được điều này trong tác phẩm.
Hình tượng "tảng băng" như thành quả lao động của nhà văn được Hemingway
nhắc đi nhắc lại nhiều lần và nâng thành nguyên lý.. Nguyên tắc lược bỏ của
Hemingway không chỉ thể hiện mong muốn viết "không thừa lời", mà còn
bắt nguồn từ lối viết "trưng ra" (showing) chứ không "miêu tả"
hay "nói ra" (telling) xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX (H.James) và đặc
biệt phát triển trong thế kỷ XX ở các trào lưu văn học hiện đại chủ nghĩa.
Hemingway từng viết: "Nếu như thay vì miêu tả anh trưng ra những gì anh thấy,
anh có thể làm việc đó một cách có dung lượng và mang tính tổng thể, trung thực
và sống động. Dù tốt hay xấu, lúc đó anh sáng tạo".
Lối viết "trưng
ra" ở nhiều nhà văn hiện đại chủ nghĩa không chỉ đáp ứng nhu cầu tái hiện
lại cuộc sống một cách khách quan mà còn thể hiện sự khủng hoảng ý thức hệ của
thời hiện đại, gắn liền với nguyên tắc "phi lựa chọn" (nonselection),
với cái chết của "tác giả" (R.Barthes). Khác với họ, Hemingway không
phủ nhận tri thức và cảm nhận của tác giả, ông muốn "trưng ra chính sự kiện,
sự vật và hiện tượng đã gợi nên những cảm nhận... đào sâu vào bản chất hiện tượng,
hiểu được mạch phát triển của sự kiện và hành động đã gợi nên cảm nhận này hay
cảm nhận khác".
Như vậy, "Nguyên lý tảng băng
trôi" của Hemingway vừa thể hiện mong muốn "trưng ra" sự vật, hiện
tượng để tự nó nói lên ở phần nổi của tác phẩm, vừa hướng tới sự thống nhất cảm
nhận (hay ấn tượng) của tác giả và người đọc ở "phần chìm" của tảng
băng hay "mạch ngầm văn bản". Nguyên lý này đòi hỏi người sáng tác phải
lựa chọn tái hiện, dũng cảm lược bỏ bình luận chủ quan, tổ chức văn bản thế nào
để truyền tải cảm nhận của mình về cuộc sống tới người đọc như một ấn tượng
khách quan, còn người đọc phải vừa có khả năng liên tưởng và tư duy tổng hợp để
thẩm thấu mạch ngầm ấn tượng toát ra từ văn bản như một chỉnh thể nghệ thuật...".
Về phần nổi: đầu tiên, “ông già và biển cả” là một tiêu đề
mang nhiều tầng nghĩa. Ở phần nổi, đó chỉ
đơn thuần là liệt kê hai yếu tố chính yếu của tác phẩm là ông già Santiago là
nhân vật chính và biển cả không gian chính..Tác giả đã miêu tả cuộc đấu giữa
ông lão đánh cá và con cá kiếm. Đề cao sức mạnh của con người, thể hiện niềm
tin vào nghị lực của con người và niềm tự hào về con người.
Phần chìm là ý nghĩa của đoạn trích được suy
ra từ các hình tượng. Ông già, tượng trưng cho con người. Còn biển cả là biểu tượng của tự nhiên. Ông già và Biển cả được viết hoa không chỉ thể
hiện sự trân trọng của tác giả dành cho con người và tự nhiên, mà còn bộc lộ sức
mạnh to lớn ẩn chứa bên trong hai đối tượng này. Đồng thời việc sử dụng từ “
và” chỉ quan hệ đẳng lập, đã bộc lộ quan điểm của tác giả, con người có sức mạnh
ngang với tự nhiên, thậm chí còn hơn cả tự nhiên. Con người hoàn toàn có thể chinh phục được tự
nhiên, thậm chí đó là một lão giã đã gần đất xa trời. Hình tượng con cá kiếm là ước mơ của người
lao động, cũng là biểu tượng về vẻ đẹp của tự nhiên. Ông lão đánh cá là biểu tượng
về người lao động có ý chí và nghị lực phi thường. Cuộc đấu giữa ông lão và con cá kiếm thể hiện
hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực. Qua phần nổi, tác giả còn đề cao con người,
thể hiện niềm tin vào nghị lực của con người, tự hào về con người. Trong cuộc đấu với con cá kiếm, cả hai đều
dũng cảm, mưu trí, cao thượng, nhưng chiến thắng cuối cùng thuộc về con người. Ông lão chiến thắng con cá không chỉ bằng sức
mạnh mà bằng các ý chí, nghị lực phi thường.
Ơ-nít Hê-minh-uê là nhà văn Mĩ để lại nhiều ấn tượng
sâu sắc trong văn xuôi hiện đại phương Tây góp phần đổi mới lối viết truyện và
tiểu thuyết của nhiều thế hệ nhà văn trên thế giới. Phong cách của ông giản dị,
trong sáng và ẩn chứa nhiều triết kí sâu xa về thế giới tự nhiên, con người, chất
liệu sống ấm áp kết hợp với thủ pháp độc thoại nội tâm, tình huống biến hóa
căng thẳng, đa thanh, đa nghĩa mà ông gọi là nguyên lí tảng băng trôi.
Hình tượng ông già
chinh phục con cá là biểu tượng của người anh hùng trên biển cả thôi không khát
vọng, ngược lại hình tượng con cá kiếm cũng là biểu tượng kì vĩ cho cái đẹp,
cho sức mạnh man dại của tự nhiên. Chiếm lĩnh được nó, con người không chỉ có sức
mạnh mà còn có trí khôn, lòng quả cảm mới có thể giành chiến thắng.
Bên cạnh đótùy thuộc vào người đọc đồng sáng tạo,
có thể suy rộng ra, đó cũng là thể nghiệm về thành công và thất bại của người
nghệ sĩ đơn độc theo đuổi ước mơ sáng tạo, rồi trình bày trước mắt người đời,
cũng gặp biết bao sóng gió, cam go như hình tượng ông già đối mặt với biển cả,
biển đời. Và trên đường đời của bất cứ ai, người ta đều phải trả giá cho sự
thành bại của mình. Nhưng cho dù ở bất kì hoàn cảnh nào, con người vẫn không
thôi khát vọng.
Chính nguyên lí tảng
băng trôi đã tạo nên sức hấp dẫn, cuốn hút trong sáng tác của Hemingway nói
chung và "Ông già và biển cả nói riêng". NÓ tạo cho tác giả và tác phẩm
của ông một ddấu ấn rất riêng không thể lẫn lộn và cho độc giả những hoảng trống
để suy ngẫm và tìm ra mạch ngầm của tác phẩm- điều mà nhà văn muốn bạn đọc đồng
sáng tạo với mình. Vì vậy có thể nói nguyên lí tảng băng trôi có một ý nghĩa rất
quan trọng, là linh hồn, là xương sống của tác phẩm. Nó làm cho tác phẩm và tác
giả có mộtchỗ đứng lâu bền, một sức sống mãnh iệt với năm tháng.
Nguyên lí tảng băng
trôi với nhiều ẩn ý sâu xa đã gửi gắm nhiều quan niệm của tác giả.
Để thể hiện quan niệm của
tác giả qua nguyên lí tảng băng trôi trong tác phẩm “ông già và biển cả”, tác
giả đã sử dụng rất nhiều bút pháp nghệ thuật và xây dựng một loạt các hình tượng,
một minh chứng tiêu biểu nhất được tác giả gửi gắm quan niệm của mình xoay
quanh ông lão Santiago. Đó là quan niệm về con người về cuộc sống…
Từ hình tượng nhân vật
Santiago chúng ta có thể rút ra được nhiều bài học có ý nghĩa cho cuộc sống. Những
ý nghĩ của ông lãoSantiago đều là những ý nghĩ lương thiện, tất cả những ý nghĩ
đó của lão đều gắn bó với quan niệm nhân sinh.
Trên hành trình của mình ông rút ra chân lí
“chẳng có ai phải cô đơn trên biển cả”. Lão như muốn nhắn nhủ phải biết mê say
với công việc, biết hòa vào vũ trụ, biết hồi tưởng và hơn hết là phải biết tự
phân thân để chống lại nỗi cô đơn. Khi
Santiago bắt được con cá Kiếm khổng lồ có thân hình rất đẹp nhưng sau đó cá Kiếm
bị cá Mập tấn công ăn thịt thì lão cũng đưa ra một chân lí hết sức chân thực
trong cuộc sống của con người đó là “Cái quá tốt đẹp thì chẳng bền”. Trong cuộc
sống không có cái gì hoàn hảo cả, vì thế mỗi chúng ta không nên cầu toàn.
Santiago đã chiến đấu rất mệt nhọc trên biển nhưng cuối cùng thành quả lao động
cũng chỉ còn lại bộ xương nhưng ẩn đằng sau bộ xương ấy là những bài học muôn đời.
Những bài học ấy đã nâng lên tầm khái quát có tính triết lí “Con người sinh ra
không phải để thất bại”, “Con người có thể bị hủy diệt chứ không thể bị khuất
phục.” Con người với sức mạnh tinh thần, với ý chí quyết tâm nghị lực vươn lên
trong cuộc sống thì sẽ chiến thắng tất cả mọi khó khăn, gian khổ của cuộc đời.
Santiago còn đặt ra nhiều
câu hỏi, mà mỗi câu hỏi của ông cũng là của mỗi chúng ta, của cả loài người.
“Ta sinh ra để làm gì?” Câu hỏi làm cho mọi người phải suy nghĩ trả lời. Sinh
ra để làm gì để rồi ai cũng đi đến cái chết. Vì vậy chúng ta hãy sống làm những
điều tốt đẹp có ý nghĩa cho cuộc đời, đừng chen chúc lợi danh, thù oán nhau rồi
cuối đời lại ân hận thì cũng đã muộn.
“Tồn tại hay không tồn
tại” Ông lão đánh cá Santiago không hỏi mà trả lời bằng cách thức của ông. Mục
đích ở đời của ông, mục đích làm người là làm tốt điều mình theo đuổi. Ông sinh
ra để làm nghề đánh cá vậy thì phải đánh cá cho tốt. Dù gian khổ, dù mất mát thậm
chí là vô ích thì vẫn không được ngã lòng, không được thoái chí và tuyệt vọng.
Ông lão Santiago đã nói lên một chân lí tuyệt vời, một câu trả lời thuyết phục
cho vấn đề “Tồn tại hay không tồn tại” là: Đã sinh ra làm người thì phải sống
cho xứng đáng với con người. Con hổ sinh ra đã là con hổ nhưng con người sinh
ra chưa phải là con người. Con hổ chỉ có một môi trường sống là môi trường tự
nhiên. Còn con người ngoài môi trường tự nhiên còn phải sống trong môi trường
văn hóa nữa mới thành người mà lao động là một yếu tố quan trọng nhất để tạo
nên môi trường văn hóa.
Con người sống phải
luôn luôn có niềm tin và hi vọng, niềm tin sẽ giúp chúng ta chiến thắng mọi khổ
đau, đạt được những ước mơ chân chính. Ông cho rằng: “Có mà ngốc mới không hi vọng”,
“Thêm nữa mình tin chắc đấy là tội lỗi.”. Ở tuổi già mà Santiago luôn yêu đời,
yêu nghề, lạc quan, tin tưởng thật là đáng khâm phục. Đó là bài học sâu sắc
không chỉ cho tuổi già mà cho tất cả những ai chưa đến tuổi ấy.
Thông qua ông lão
Santiago, tác giả đã thể hiện quan niệm
sống của mình thông qua ý chí, nghị lực, lòng quyết tâm vô bờ bến để đạt đến mục
đích lớn nhất, đúng đắn nhất của con người.
Ông lão là hình ảnh của
con người lao động nhưng gặp nhiều đau khổ. Khát vọng quá lớn khiến họ phải đơn
độ, thất bại, nhưng đó cũng chính là ý nghĩa không thể thiếu trong cuộc sống.
Tác phẩm như là di chúc của Hemingway về nghệ thuật. Ông lão Santiago có thể là
hình tượng mà nhà văn theo đuổi, muốn sáng tạo ra một tác phẩm đẹp nhất vào cuối
đời. Cũng như ông lão, đến khi già không còn sức khoẻ nhưng ông vẫn luôn hi
vong vào điều tốt đẹp sẽ đến và niềm hy vọng không bao giờ bị vụt tắt. Qua đó,
tác giả muốn động viên, cổ vũ con người phải luôn có niềm tin, hi vọng vào cuộc
sống, khảng định sự tồn tại của bản thân.
Qua đó tác giả còn gửi
gắm quan niệm của mình về cái đẹp. Khi chiếc thuyền lênh đênh trên biển không
phương hướng, không điểm đích như thể nó đang đi tìm về cội nguồn của cái đẹp.
Với ông lão, cái đẹp bây giờ đã được đặt trong mối quan hệ đối lập: yếu- khoẻ,
sống- chết, chi chiến thắng- thất bại…Và ông lão đánh giá đúng cái đẹp và cái xấu,
để rồi bị rơi và bi kịch. Đó là bi kịch giữa cái đẹp với cái đẹp và giữa những
mặt đối lập nó vừa thống nhất vừa tách biệt tồn tại trong cùng một tổng thể.
Hemingway đưa đến cho bạn đọc một vấn đề về bi kịch của sự tồn tại. Muốn sống đẹp,
con người ta phải tiêu diệt cái xấu trong cái đẹp và hơn thế nữa, đôi khi chỉ
vì lí do tồn tại, họ phải tiêu diệt chính cái đẹp mà bản thân họmuốn giữ. Từ đó
tác giả đặt ra vấn đề bi kịch về sự hữu hạn của con người.
Thông qua tác phẩm nhà
văn còn thể hiện quan niệm của mình, mong ước
vào thế hệ tương lai, biết quý trọng cái đẹp, nhìn nhận bản chất của vấn
đề và luôn sáng suốt, có niềm tin vững chắc.
-Đặc điểm về ngôn ngữ kể
chuyện có sựu kết hợp nhuần nhuyễn và sự dịch chuyển di động giữa đối thoại và
độc thoại nội tâm , giữa lời kể chuyện và miêu tả cảnh thiên nhiên.
-Xây dựng nhiều hình ảnh
mang tính ước lệ tượng trưng, cô đọng, hàm súc, giàu ý nghĩa biểu tượng.
-Phong cách viết văn độc
đáo, vận dụng thành công nguyên lí Tảng băng trôi với nhũng tầng lớp nghĩa đa dạng,
câu văn nhiều khoảng trống tạo nên sự hấp dẫn, gợi sự tò mò cho người đọc.
- Miêu tả không gian sống
quanh ông lão, đó là không gian mênh mông của biển khơi và nơi bé hẹp túp lều
ông lão, thành phố Havana….
2. Về nội dung:
- Như vậy với việc áp dụng
nguyên lí tảng băng trôi trong các sáng tác của mình và cụ thể trong tác phẩm
Ông già và biển cả. Nhà văn đã đem đến cho tác phẩm của mình những nét mới độc
đáo, khiến cho người đọc như đang sống cùng tác phẩm, đi từng bước theo tác phẩm
và trải nghiệm tất cả mọi thứ đang diễn ra. “Ông già và biển cả” không đơn thuần
là câu chuyện về chuyến đi câu của một ông lão mà hơn trên tất cả là quan điểm
đề cao con người, đứng về phía người lao động và khẳng định giá trị của họ. Con
người phải luôn hoạt động, không ngừng đấu tranh để tồn tại và khẳng định ý
nghĩa của chính mình. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng toát lên vẻ đẹp của con người,
làm nghề gì không quan trọng mà quan trọng mình đã thực hiện nó ra sao và trở
thành người nghệ sĩ trong chính con đường mà mình đã chọn.
Tài liệu tham khảo
1. Nhiều
tác giả, Giáo trình văn học phương Tây,
NXB Giáo dục, 2012.
2. Lê
Huy Bắc, Ernest Hemingway và “Ông già và
biển cả”, NXB Giáo dục, 2008.
3. Nhiều
tác giả, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia.
4. Đặng
Thị Nghĩa, Không gian và thời gian trong
ông già và biển cả của Ernest Hemingway, Trường ĐHSP Hà Nội, 6/2000.
5. Nguyễn
Hiền Lương, Nghệ thuật tiểu thuyết ông
già và biển cả của Hemingway, Trường ĐHSP Hà Nội, 2001.
6.
Nhiều tác giả, Văn 12 Sách giáo viên- Phần
văn học nước ngoài và lý luận văn học, Bộ GD và ĐT, 1998.
7.
Nhiều tác giả, Từ điển văn học tập II,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội-1984.
8.
Tài liệu văn học. net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét