HỌC PHẦN: THỂ LOẠI VÀ CÁC TÁC GIA
TIÊU BIỂU
VĂN HỌC ĐÔNG ÂU – NGA
Đề tài: Thế nào là “nỗi buồn sáng trong”
trong thơ A.Pushkin? Phân
tích bài thơ Con đường mùa đông ? Chủ
đề đường đời, vấn đề số phận cá nhân và vận mệnh nước Nga trong thơ Pushkin và
thơ Nga nói chung.
Bài làm
I.
Khái quát chung.
1.
Tác
giả
-
A.S.Pushkin sinh năm 1799 trong một gia
đình quý tộc tại Moskva. Họ nội là một dòng họ quý tộc Nga lâu đời còn mẹ là người
thuộc dòng dõi của người Arap nổi tiếng.
-
Pushin được học tiếng Pháp từ nhỏ. Tiếng
Nga và văn hóa Nga được ông tiếp thu từ những lời dạy của bà thuộc tầng lớp quý
tộc cung đình cổ xưa và đặc biệt từ những bài ca dân gian.
-
Từ năm lên 8, 9 tuổi Pushkin bắt đầu
sáng tác bằng việc học tập phong cách của nhiều nhà thơ thuộc các khuynh hướng
khác nhau từ các nhà thơ Nga đến các nhà thơ phương Tây từ cổ điển đến hiện đại
và đem lại cho những hình thức thơ cũ những ý thơ mới hết sức thú vị và bất ngờ.
-
Vì sáng tác những bài thơ kêu gọi nhân
dân đứng lên đấu tranh cho tự do, chống lại chính quyền nông nô chuyên chế nên
Pushkin bị Nga hoàng đày xuống phương Nam. Trong thời gian bị đi đày, Pushkin
đã từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn để tìm đến với chủ nghĩa hiện thực.
-
Pushkin được mặc nhiên thừa nhận là “Mặt
trời của thi ca Nga”. Trong hơn 20 năm sáng tác ông đã để lại một gia tài văn học
đồ sộ với hầu hết các thể loại: thơ, kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết bằng thơ,..
-
Ông chết trong một cuộc đấu súng để bảo
vệ danh dự cho vợ của mình, người phụ nữ được ông hết mực yêu chiều và xem là tất
cả.
“Nhà thơ đấu súng nào quen
Với ích kỉ, với nhỏ nhem không hòa
Tràn nhân hậu, quá vị tha
Diệu kì là tấm lòng Nga trọn đời”
(Với
Pushkin- Ngô Viết Dinh)
2.
Tác
phẩm
-
Bài thơ Con đường mùa đông được Pushkin sáng tác vào mùa đông năm 1826. Nỗi
buồn của riêng nhà thơ đang bị đi đày ở Mikhailovskoie hòa với nỗi buồn chung của
dân toocjsau thất bại của cuộc khởi nghĩa Tháng chạp năm 1825 làm tăng them ấn
tượng giá lạnh “mùa đông” trong bài thơ.
-
Ý thức về quy luật vận động của cuộc sống
với những điểm tựa của nó đã làm cho nỗi buồn trong thực tại không còn đáng sợ,
nó đã có thể trở thành “sáng trong”.
II. “Nỗi
buồn sáng trong” trong thơ Pushkin
1.
Đặc
điểm của “nỗi buồn sáng trong” trong thơ Pushkin
Một
mảng đề tài lớn trong thơ Puskin, đó là, ông làm thơ ca ngợi vẻ đẹp tinh thần
con người, về tình yêu, tình bạn, ước mơ, khát vọng, niềm vui sống về ý chí và
sức mạnh của con người vượt lên mọi buồn đau. Bên cạnh những bài thơ ngập tràn
tinh thần lạc quan với niềm tin vào tương lai trong sáng Tự do (1817), hay tiếng reo vui đắm say cuộc sống Buổi sáng mùa đông (1829) Tửu thần ca (1825)
Puskin có không ít bài thơ nói về nỗi buồn. Tuy nhiên, thơ Puskin có thể buồn
nhưng không bi lụy: “Tôi vừa buồn vừa
thanh thản. Nỗi buồn của tôi sáng trong” (Trên đồi Grudia, 1829).
“Nỗi
buồn sáng trong” ấy xuất hiện trong thời kì nhà thơ bị lưu đày ở phương Bắc. Thời
kì đó công việc sáng tác của Puskin không hề thuận lợi. Có lúc ông bị khủng hoảng
tinh thần trầm trọng. Nhưng cũng vào lúc đó, thiên thần hộ mệnh Kernơ của ông
xuất hiện . Chính tình yêu cao cả đã cứu Puskin và trả lại cho ông niềm cảm xúc
tuyệt vời. Puskin đã viết lên những câu thơ kì diệu:
Anh nhớ mãi phúc giây
huyền diệu
Trước mắt anh em bỗng hiện lên
Như hư ảnh mong manh chợt biến
Như thiên thần sắc đẹp trắng
trong
...
Quả tim lại rộn ràng náo nức
Vì trái tim sống dậy đủ điều
Cả tiên thần, cả nguồn cảm
xúc
Cả đời, cả lệ, cả tình
yêu
Từ đây, nhiều kiệt tác trữ tình của thơ
ca Nga xuất hiện: Con đường mùa đông, Lá thư bị đốt cháy. Những bài thơ
này thường đượm một vẻ buồn, khi phảng phất, khi sâu lắng nhưng sắc điệu
cơ bản của chúng vẫn là một nỗi buồn sáng trong
“Nỗi buồn sáng trong” là từ quen thuộc,
đặc trưng riêng để chỉ những nỗi buồn trong nhiều bài thơ của Puskin. Trước hết,
đó là những nỗi buồn,là những xúc cảm của nhà thơ, nỗi lòng sầu muộn về con người
về đất nước và về chính bản thân mình. Nỗi buồn ấy thấm vào cảnh vật, hay chính
sự vật là phương tiện để khắc khoải nỗi buồn của Puskin. Trong nỗi buồn ấy là sự
cô đơn giữa cuộc đời, nỗi buồn về số mệnh đất nước về nỗi đau của nhân dân và
buồn cho thân phận của nhà thơ. Nỗi buồn không hề ẩn dấu mà nó thể hiện ngay
trong từng câu chữ, từng hình ảnh thơ, có khi lặp lại rất nhiều lần từ “buồn” “sầu” trong một bài thơ. Dường
như nỗi buồn đã lan tỏa bao trùm bài thơ.
Tuy nhiên, điều đặc biệt trong nỗi buồn của Puskin, nỗi buồn ấy
không hề bi lụy, thê lương mà mang một vẻ rất sáng trong. Điều này thể hiện
trong nhiều bài thơ của ông, đặc biệt là “Con
đường mùa đông”. Trong nỗi buồn ấy luôn có sự vận động hướng tới ngày mai,
luôn có ý thức chiến thắng nỗi buồn , vươn tới điều tốt đẹp hơn. Trong bài “Con đường mùa đông” chính là hình tượng
con đường như là biểu tượng có hướng chiến thắng nỗi buồn.
Họ luôn tìm được những niềm hạnh phúc để vượt qua nỗi buồn ấy.
Đó chính là những điểm tựa tinh thần vô giá, điểm tựa tình yêu lứa đôi, tình
yêu gia đình và quê hương xứ sở. Có được nỗi buồn sáng trong ấy là nhờ nhà thơ
ý thức được quy luật vận động của cuộc sống, điểm tựa cội nguồn, hơi ấm tình
người, khát vọng sáng tạo không tắt ở trong lòng mình. Đó chính là thứ giúp nhà
thơ tin tưởng vào ngày mai, sưởi ấm lòng mình để chiến thắng nỗi cô đơn giá lạnh,
nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn.
Nỗi buồn ấy gắn với hình ảnh thiên nhiên đẹp dịu
dàng, trong sáng như trăng, tuyết, hoa, những ánh lửa, con đường…gợi sự êm đềm,
man mác, bình thản, tâm trạng con người vì thế cũng không hề dữ dội, bi thương.
Đọc bài thơ, người đọc thấm được cảm xúc u hoài của nhà thơ, nhưng để lại trong
tâm trí là nỗi buồn khắc khoải, sâu lắng, và thật nhẹ nhàng và bản thân người đọc
cũng tìm thấy cho mình hy vọng, sự ấm áp quyện trong đó.Để lại trong lòng bạn đọc
dư âm sầu muộn chứ không phải sầu đau, không bi lụy, đau thương mà là “buồn
giăng xa”, “buồn tẻ”, khiến người ta suy nghĩ nhưng không đau đáu, ám ảnh. Đấy
chính là nỗi buồn trong sáng mà Puskin gửi đến chúng ta.
Nỗi
buồn sáng trong ấy còn thể hiện trong nhiều bài thơ về tình yêu cuả Puskin. Thơ
Puskin không thiếu những cảm giác đớn đau nhưng không hề vị kỉ. Trong tình yêu,
nhân vật trữ tình của Puskin bao giờ cũng ý thức được sự thay đổi tình cảm theo
thời gian và luôn biết đặt hạnh phúc của người mình yêu lên cao hơn nỗi đau của
chính mình Tôi yêu em(1829), Một chút tên tôi với nàng (1830), Không, tôi không
nên, không dám, không thề (1832)… Tình yêu với Puskin không đơn thuần là tình cảm
giới tính, nó còn là nguồn lực sống, nguồn lực sáng tạo.
Nỗi buồn sáng trong trong thơ Puskin chính là một đặc
điểm lớn trong thơ trữ tình của ông. Một nỗi buồn luôn có sự vận động với điểm
tựa tinh thần, mang lại ý thức, khát khao vượt qua nó. Đó còn là nỗi buồn sáng
trong của tình yêu, một tình yêu đầy vị tha, yêu thương nhưng đầy lí trí của
nhà thơ Puskin.
2.
“Nỗi
buồn
sáng trong” trong bài thơ Con đường mùa
đông
Có những con đường đã đi vào thơ
văn như một huyền thoại. Và với Pushkin- nhà thơ vĩ đại không chỉ của văn học
Nga mà còn của văn học thế giới đã góp vào văn học một con đường sống mãi với
thời gian. Đó là “Con đường mùa đông”
của nước Nga. “Con đường mùa đông” là một bài thơ trữ tình thấm đẫm nỗi buồn,
nhưng nỗi buồn ở đây mang một đặc điểm rất riêng cho thơ Pushkin. Đó là “Nỗi buồn sáng trong”.
Xuyên
những làn sương gợn sóng
Mảnh
trăng mờ ảo chiếu qua
Buồn
dải ánh vang lai láng
Trên
cánh đồng buồn giăng xa
Nỗi buồn, nỗi cô đơn của nhân vật được thể hiện ngay
từ khổ đầu và xuyên suốt toàn bộ bài thơ. Nỗi buồn được tác giả thể hiện thông
qua các hình ảnh “làn sương”, “mảnh
trăng” được xuất hiện cùng với các động từ mạnh “xuyên” “chiếu”, lại nằm trong một không gian trải rộng “lai láng”, “giăng xa” đã tạo nên một
không gian mênh mông, lạnh lẽo. Trong không gian đó, con người lại cành thu nhỏ
mình lại, càng trở nên nhỏ bé và cô đơn. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình không
chỉ thể hiện gián tiếp thông qua các hình ảnh mà còn được bộc lộ trực tiếp
thông qua hai câu thơ cuối của khổ một. Nỗi buồn không chỉ ở xung quanh nhân vật
trữ tình mà đã trải rộng suốt cả chiều dài và chiều rộng của không gian, bao phủ
lấy con người và thể hiện sự thống trị tối đa với con người.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất Pushkin chỉ miêu tả không
gian thiên nhiên thì đến với khổ thơ thứ hai, hình ảnh con đường và con người
đã được xuất hiện:
Trên con đường mùa
đông vắng vẻ
Cỗ xe tam mã băng đi
Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ
Đều đều khắc khoải lòng quê
Cỗ xe tam mã băng đi
Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ
Đều đều khắc khoải lòng quê
Như
để khẳng định thêm cho chủ đề của bài thơ, sự xuất hiện của con đường ngay lập
tức đi cùng với nỗi buồn, đó là “mùa đông” và sự “vắng vẻ”. Hình ảnh con đường
xuất hiện làm người đọc liên tưởng đến một sự giải thoát nhưng dường như
vì nằm trong không gian mênh mông của nỗi buồn nên con đường ở đây không còn ý
nghĩa như ban đầu. Ta biết rằng con đường được đặt
trong bối cảnh không gian thời gian buồn vào ban đêm vắng lặng trong mùa đông lạnh
lẽo, nó chạy qua cánh đồng mênh mông không một ánh lửa mái lều, nghĩa là cuộc
hành trình của con người ấy không có điểm dừng để nghỉ ngơi, không có hơi ấm
con người mà chỉ có một cỗ xe tam mã băng đi về phía trước, “xe vun vút lao đi”. Hình ảnh cỗ xe
tam mã (loại xe nhỏ, có 1-2 người ngồi, do chính Pushkin phác họa nên) đi nhanh
như “băng”
trên mặt đất đã thể hiện cho sự vượt lên hoàn cảnh. Hình ảnh cỗ xe tam mã trã
trở thành biểu tượng cho sự vận động bay lên của văn học Nga. Ở khổ thơ thứ hai
còn có sự xuất hiện của âm thanh, nhưng âm thanh ở khổ thơ thứ hai cũng nhuốm
màu của nỗi buồn “Nhạc ngựa đều đều buồn
tẻ”. Trong khổ thơ thứ hai tác giả có sử dụng phép điệp ngữ “đều đều” đã càng nhấn mạnh tâm trạng
trong toàn bộ bài thơ. Đấy không chỉ còn là nỗi buồn mà còn là sự mệt mỏi của
nhân vật trữ tình. Trong khổ thơ thứ hai, bên cạnh sự xuất hiện của các hình ảnh
còn xen vào đó là các âm thanh của cỗ xe “nhạc
ngựa”. Nhưng tất cả chỉ góp phần tạo nên một không gian buồn bã mênh mông
mà không có điểm dừng.
Những bài thơ của Pushkin đều mang một tâm trạnh buồn,
thế nhưng nỗi buồn trong thơ Puskin lại mang những dấu ấn đặc biệt với người đọc.
Đó là “nỗi buồn sáng trong”. Nỗi buồn
ấy thể hiện khá rõ trong khổ thơ thứ ba:
Bài ca của người
xà ích
Có gì phảng phất thân yêu:
Như niềm vui mừng khôn xiết
Như nỗi buồn nặng đìu hiu.
Có gì phảng phất thân yêu:
Như niềm vui mừng khôn xiết
Như nỗi buồn nặng đìu hiu.
Nếu
như ở hai khổ thơ trên, nhân vật trữ tình chìm đắm trong nỗi buồn mà không có lối
thoát thì đến đây tâm hồn như dịu lại trong tiếng hát “ngân nga” của người xà ích. Khúc hát vang lên “thân thiết”, bài dân ca Nga lúc vui, lúc buồn như đang xoa dịu bao
nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Đến đây, bài thơ đã có phần trở nên vui tươi hơn bởi
tiếng hát của người xà ích khiến nhân vật trữ tình nhớ đến cội nguồn quê hương
trong đêm thanh vắng. Đây chính là “nỗi
buồn sáng trong” của Pushkin trong bài thơ này. Có được nỗi buồn sáng trong
ấy là nhờ nhà thơ không thoát li vào mộng tưởng mà củng cố dũng khí nhìn thẳng
vào thực tại nghiệt ngã, ý thức được quy luật vận động của cuộc sống, ý thức được
điểm tựa cội nguồn, hơi ấm tình người, khát vọng trong lòng mình dù ở trong mọi
hoàn cảnh. Chính những điểm tựa đó đã làm cho nỗi buồn trong thực tại không còn
đáng sợ, nó đã có thể trở thảnh sáng trong, nỗi buồn không còn đậm nét và đơn điệu nữa mà đã được
xoa dịu bởi những âm thanh quen thuộc kia. Âm thanh từ tiếng hát đã làm cho
nhân vật trữ tình bớt cô đơn và mơ về mái ấm ở khổ bốn:
Không một mái lều, ánh lửa...
Tuyết trắng và rừng bao la...
Chỉ những cột dài cây số
Bên đường sừng sững chào ta
Trong không gian vắng vẻ đìu hiu,
nhân vật trữ tình luôn mơ về một mái ấm, nơi đó xuất hiện ánh lửa ấm nồng. Thế
nhưng chỉ
có những “cột cây số” hữu tình mà vô
cảm đang ngược chiều, chạy tới, không gian đã trải rộng lại trải rộng thêm ra.
Tác giả lấy những cái hư vô ở ngoại cảnh để nói những cái hữu hình trong tâm tưởng
nhân vật. Các cặp đối lập giữa sự ấm cúng trong tâm tưởng với sự lạnh lẽo và sự
thật ở bên ngoài đã càng làm khắc sâu hơn tâm trạng xuyên suốt bài thơ của nhân
vật. Ta thấy con đường xuất hiện với một sự cô đơn trong khung cảnh lạnh lẽo tô
đậm nỗi buồn của nhân vật nhưng đồng thời hình tượng con đường ấy còn là biểu
trưng cho sự vận động hướng về phía trước, nỗi buồn vì thế mà trở thành sáng
trong. Khổ thơ thứ tư với vị trí bản lề đã tạo nên bước chuyển quan trọng trong
tâm tưởng nhân vật, đó là dù bị bủa vây bởi không gian nhưng tâm trạng của nhân
vật đã được tách ra để thấy rõ được những khắc khoải trong lòng.
Là
một bài thơ để tả những nỗi buồn, “Con đường
mùa đông” của Pushkin là một bức tranh được xây dựng bởi gam màu trầm và lạnh,
với sự xuất hiện dày đặc của các từ ngữ chỉ nỗi buồn gắn với hình ảnh của thiên
nhiên như là : “Mảnh trăng” “buồn dải ánh
vang lai láng”, “Cánh đồng buồn giăng xa”, “con đường mùa đông vắng vẻ”, “nhạc
ngựa đều buồn tẻ”, “Bài ca của người xà ích”, tất cả đã tạo nên những ấn tượng
khó quên đối với độc giả. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã sử dụng nhiều cặp đối lập
nhau để thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình trước hoàn cảnh.
Con
đường mùa đông đã dài lạiđược kéo dài tưởng như vô tận. Bao phủ cảnh vật là màu
trắng của tuyết, màu đen sẫm củarừng. Cảnh sắc thiên nhiên mùa đông nước Nga được
miêu tả một cách tinh tế và chọn lọc nhằm tô đậm nỗi buồn cô đơn và lạnh lẽo của
người lữ khách.
Đến với khổ thơ thứ năm, điều chúng ta nhận ra đầu
tiên đó vẫn là nỗi buồn thấm đẫm:
“Ôi
buồn đau, ôi cô lẻ…
Trở
về với em ngày mai
Nhina,
bên lò lửa đỏ
Ngắm
em, ngắm mãi không thôi.”
Lời ca của ngườixà ích lúc như “vui mừng khôn xiết”
lúc “buồn đặng đìu hiu” là ý thức về cội nguồn cũng không thể xoa dịu bao nỗi
buồn cô đơn đầy ắp trong lòng người trên cỗ xe tam mã lao vun vút trên con đường
phủ tuyết giữa đêm đông lạnhlẽo. Lời than“Ôi đau buồn, ôi cô lẻ…” nói lên nỗi
buồn cô đơn của người đi đày. Ở đây, bao quát toàn bộ nỗi buồn được thể hiện bằng
hai nỗi buồn chung- riêng là nỗi buồn cho thân phận, tình cảnh cá nhân hiện tại
và cũng là nỗi buồn cho hoàn cảnh đất nước hiện giờ. Đằng sau dấu “…” kia còn
bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu buồn đau và cô lẻ nữa? Chúng ta không phủ nhận nỗi
buồn trong thơ Pushkin, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, nỗi buồn ấy
“sáng trong” bởi nó không hề bi lụy. Ngay trong tiếng than ấy, không khó để nhận
ra nó có hướng, hướng đến Nhina, hướng đến ý niệm tình yêu, đến hơi ấm của tình
người. Nhà thơ thầm gọi tên người yêu trong tâm tưởng, Nhina ở giữa hai từ
“ngày mai” và Nhina ở đó, phía cuối con đường, điểm đến của con đường kia chính
là người yêu, là tình yêu, là hi vọng vượt qua “ngày mai” trở vềtrong mái ấm,
trong sự sum họp đầy hạnh phúc. Trở về để ngắm Nhina bên lò lửa ấm yêuáp. Trong
tuyết lạnhmà nghĩ về lò lửa đỏ ấm áp, mái ấm hạnh phúc gia đình, trong chia li
mà nghĩ đến đoàn tụ, trong xavắng mà hi vọng trở về gặp người yêu thương, trong
buồn đau mà tâm tưởng luôn hướng đến tương lai, không gian khác hạnh phúc, đó
chính là “nỗi buồn sáng trong”.
Khổ thơ thứ năm khép lại để mở ra khổ thơ thứ sáu, vẫn
là nỗi buồn có thể cảm nhận ngay trên bề mặt văn bản:
“Kim
đồng hồ kêu tích tắc
Xoay
đủ những vòng nhịp nhàng
Và
xua lũ người tẻ ngắt
Để ta bên nhau trong đêm”
Nỗi buồn được thể
hiện qua hình ảnh “kim đồng hồ” kêu một cách đơn điệu, nặng nề, xoay đi xoay lại
những vòng giống như nhau. Không gian như tĩnh lặng, có thể nghe rõ cả tiếng
kim đồng hồ càng nhấn mạnh sự cô đơn, buồn tẻ của con người. Nhưng đồng thời,
ta cũng thấy rằng ở khổ thơ này, quy luật vận động được đẩy lên đến đỉnh điểm,
đồng hồ đang “xoay” đánh dấu cho bước vận động của thời gian.Ý thức về “ngày
mai” với “vòng quay” của thời gian được điểm bằng những tiếng kim đồng hồ xua
đi “lũ người tẻ ngắt” để chỉ còn đọng lại tình yêu. Ở đây, chiếc đồng hồ và tiếng
kêu “tích tắc” của nó phải chăng là vật luôn gắn bó với nhân vật, nhắc nhở
baohoài niệm thương yêu? Nhân vật như chìm trong tâm tưởng với Nhina, đây có thể
hiểu là mong ước của nhân vật được trở về để “bên nhau” trong hạnh phúc hay là
niềm tin rồi thời gian sẽ đủ sức mạnh để xua đi mọi ngăn cấm, ràng buộc để cuối
cùng vẫn giữ được hạnh phúc cho đôi ta. Hai khổ thơ 5, 6 như sự vận động diễn
ra trong tâm tưởng nhân vật, con người như đang chìm đắm trong ý nghĩ về tình
yêu với một người con gái Nga hiền dịu, người con gái ấy như trở thành động lực,
là niềm tin, điểm tựa cho tâm hồn người vượt qua nỗi buồn.
Đến với khổ thơ cuối
bài, đây như sự quay trở về với thực tại. Vẫn là một lời than về nỗi buồn,
trong toàn bộ bài thơ này, lúc nào cũng thế, nỗi buồn luôn len sâu vào không
gian, cảnh vật và trong cả tâm trạng con người.
“Sầu lắm. Nhina, đường xa vắng”
Lời than ấy như kéo
Nhina về với thực tại đồng hành với chính nhân vật trữ tình, không phải vượt
qua “ngày mai” để đến với Nhina nữa. Nhân vật như thầmnhắc tên người yêu để cố
xua đi một phần nào nỗi buồn cô đơn. Khổ thơ cuối như tả sâu hơn tâm trạng người
lữ hành, từ mơ tưởng trở về thực tại, vớicon đường mùa đông lạnh lẽo, con đường
đi đày với nỗi buồn xa vắng. Đây là khổ thơ tổng kết những hình ảnh quan trọng
trong bài thơ, mỗi một hình ảnh lại gắn với nỗi buồn nhưng mặt khác, hình ảnh ấy
cũng gắn với “nỗi buồn sáng trong”. Đó là nỗi buồn nhưng đồng thời cũng gắn với
điểm tựa tình yêu là Nhina, không chỉ vậy hình ảnh “đường xa vắng” lại quay trở
lại, con đường ấy tẻ ngắt với “những cột dài cây số”, con đường mà con người
đang đi buồn tẻ và cô đơn nhưng sứ mệnh của con người là đi trên con đường đó,
con đường ấy dù “xa vắng” nhưng cũng thể hiện một sự vận động hướng về phía trước.
Hình ảnh người “xà ích” gắn kết với “lặng im” không hát nữa, ta thấy nỗi buồn của
nhân vật vì sự lặng im này nhưng cũng như thấy được tiếng hát ấy vẫn vang trong
tâm tưởng con người. Ta thấy “nhạc ngựa đều đều buông xa thẳm”- một âm thanh buồn
và đơn điệu nhưng cũng đồng nghĩa với thấy được đặc điểm bước vận động không ngững
của cỗ xe. Hình ảnh cuối cùng của bài thơ “Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng”
mang kết cấu đối xứng, cuối cùng, bóng tối che đi ánh sáng, nỗi buồn đẩy đến cực
điểm nhưng không khép kín vì có vận động tâm tưởng không ngừng trong tâm tưởng
của nhân vật trữ tình: đó là sự ý thức rõ sứ mệnh của mình với những điểm tựa
tinh thần như là hành trang của mình, nỗi buồn ấy không bi lụy vì nhân vật ý thức
được những khó khăn, đó là quy luật vận động của cuộc sống, vì thế mà nỗi buồn
không còn đáng sợ nữa. Nhân vật trữ tình giờ đây đồng hành với nỗi buồn, với ý
thức chiến thắng nỗi buồn ngay trong chính nó, đó là “nỗi buồn sáng trong”.
Hình ảnh con đường giờ đây chính là đường đời, chính ý niệm về không gian tươi
sang, về ngày mai hạnh phúc làm nỗi buồn không còn bi lụy.
Để làm nên một bài
thơ thành công với “nỗi buồn sáng trong” đậm nét không thể không nói tới những
biện pháp nghệ thuật tiêu biểu được tác giả sử dụng. Bài thơ dường như có một kết
cấu đối xứng với một kết cục buồn, mở đầu bằng hình ảnh mặt trăng “xuyên qua”
những lớp sương mù, kết thúc bằng hình ảnh khuôn trăng mờ sương.Thể thơ ngắn gọn,
dễ hiểu, phù hợp với thời gian qua bước chân ngựa phi. Hình ảnh thơ giàu hội họa:
cảnh vật, màu sắc, âm thanh, cung bậc của nỗi buồn tăng theo sự chuyển động của
thời gian.Đặc điểm nổi bất của “Con đường mùa đông” là mỗi một hình ảnh, hay âm
thanh xuất hiện trong bài dường như không phải chỉ mang một mục đích duy nhất
là nhấn mạnh nỗi buồn mà còn là hướng vận động hay điểm tựa giúp nhân vật trữ
tinh đấu tranh với nỗi buồn. Nghệ thuật
tương phản, đối lập (xe chạy đối lập với sự ngưng đọng, tiếng hát đối lập với sự
im lìm, ước mơ chợt đến đối lập với nỗi buồn da diết) được sử dụng khắc họa rõ
nét hơn nỗi buồn nhưng không bi lụy của con người.
Có thể khẳng định rằng, đây là một bài thơ thấm “nỗi
buồn sáng trong”. Có được nỗi buồn sáng trong ấy là nhờ nhà thơ không thoát li
vào mộng tưởng mà củng cố dũng khí nhìn thẳng vào thực tại nghiệt ngã, ý thức
được quy luật vận động của cuộc sống, ý thức được điểm tựa cội nguồn, hơi ấm
tình người, khát vọng sáng tạo không tắt trong lòng mình. Chính những điểm tựa
đó đã làm cho nỗi buồn trong thực tại không còn đáng sợ. “Đến với bài thơ, ta gặp
được chính con người Puskin, gặp những nỗi lo âu về số phận, sự khắc khoải về hạnh
phúc, nhưng những cung bậc của nỗi buồn trong bài thơ không làm ủy mị trái tim
mà làm nhân vật trữ tình thêm tha thiết yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu cái
đẹp, củng cố niềm tin để vượt lên hoàn cảnh, số phận. Nỗi buồn ấy có tác dụng
thanh lọc tình cảm, nỗi buồn rất Puskin, rất Nga, “nỗi buồn sáng trong”
(Bieelixki)
III.
Số phận cá
nhân và vận mệnh nước Nga trong thơ Pushkin và thơ ca Nga
1. Vấn
đề số phận cá nhân và vận mệnh nước Nga trong thơ Pushkin
1.1.
Vấn đề số phận cá nhân trong thơ Pushkin
Không một nhà văn nào trước Pushkin gắn bó với nhân
dân chân thành và ruột thịt như Pushkin, ông là thi sĩ biết dùng lời ca để đốt
tim người, làm cho con người tin tưởng hơn vào cuộc sống, cuộc đấu tranh. Thơ
ông thấm nhuần tinh thần nhân đạo “đánh thức những tình cảm tốt đẹp” trong con
người. Trung tâm chú ý của Pushkin là con người với mọi mặt phức tạp của thế giới
nội tâm và mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Nói lên những cảm xúc, tâm tình
tư tưởng của con người là phần nội dung quan trọng trong thơ trữ tình của
Pushkin. Nhưng con người ở đây không phải là con người trừu tượng, lí tưởng mà
là con người trong mối liên hệ lịch sử, trong tâm lí cụ thể và mọi mặt phong
phú của cá tính.
Số phận cá nhân được
thể hiện một cách rõ nét trong thơ trữ tình Pushkin và đặc biệt trong các bài
trường ca. Điều này ta có thể thấy rõ trong ba bản trường ca lớn của ông đó là:
Ruxan và Liutmila, Người tù Capcaz và
Đoàn người Sugan .
Với bài trường ca Ruxlan và Liutmila (1820), Pushkin đã là
nhà thơ đầu tiên dám đưa vào bản trường ca những con người thật chứ không phải
là những cái bóng, lần đầu tiên xuất hiện một con người sống thật biết yêu
thương, buồn vui, căn giận, sống gần gũi với hiện thực. Trong bản trường ca
này, Pushkin đã đưa vào cả những nhân vật anh hùng lẫn nhân vật bình thường, kết
hợp những cái cao cả và cái tầm thường để từ đó làm nổi bật lên số phạn cá nhân
con người.
Đến bản trường ca Người tù Capcaz, nhân vật chính ở đây lại
là một con người thể hiện tính ích kỉ, lạnh lùng, anh ta chỉ chú ý đến việc chạy
trốn cho riêng mình mà không hề nghĩ đến sự tự do của người khác. Ở đây Pushkin
nói đến hình ảnh, số phận của một cá nhân nhưng đó cũng là hình ảnh đại diện
cho một bộ phận thanh niên Nga thời đại bấy giờ: chỉ chú ý đến sự tự do của cá
nhân mình.
Và cuối cùng là ở bản trường ca Đoàn người Sugan, số phận cá nhân được
thể hiện rõ nét nhất trong ba bản trường ca. Nổi bật trong bản trường ca này là
hình ảnh ông già Sugan, một con người giản dị, rộng rãi, tốt bụng và chịu đựng,
hay nhân vật Aleco – một con người đầy mâu thuẫn, anh ta cũng là con người đại
diện cho thanh niên Nga giống như nhân vật người tù Capcaz. Nhà thơ còn quan
tâm đến hình ảnh những con người nghèo khổ, rách rưới, sống cuộc sống nay đây
mai đó. Đó là nhưng sự thật trong đời sống Nga đương thời.
Trong những tác phẩm trường ca,
Pushkin đã tỏ ra thông cảm sâu sắc đối với những đau khổ, bất bình, khát vọng tự
do của con người. Ông chú ý đến số phận con người cá nhân, phản ánh nó một cách
chân thực và sinh động nhất. Nhưng ở đó, số phận cá nhân được nhìn trong mối
quan hệ gắn bó với số phận nhân dân, vận mệnh đất nước, mỗi hình tượng nhân vật
của ông đều là đại diện cho một lớp người, một kiểu người nào đó trong xã hội
nước Nga đương thời bởi thơ ông luôn đề cao vấn đề vận mệnh dân tộc.
Không chỉ thể hiện số phận cá nhân
trong những bản trường ca mà Pushkin còn thể hiện điều đó trong những bài thơ của
mình. Và chủ đề làm nổi bật số phận cá nhân con người chính là chủ đề ngợi ca tự
do. Pushkin
coi tự do là một điều kiện tiên quyết, và tự do dân tộc phải gắn liền với tự do của của mỗi con người
cá nhân. Sự tự do cá nhân này được ông diễn tả rất sinh động, có lúc ông diễn tả
cuộc sống của mình như một con chim tự do bây giờ phải sống trong cái lồng chật
hẹp để thể hiện khát khao mãnh liệt về tự do cá nhân.
“Bay bay đi, ta loài
chim tự do
Bay về nguồn nước vô
cùng trong sáng”
Ban
đầu, Pushkin hi vọng có một vị vua anh minh đem lại tự do cho nhân dân, nhưng dần
dần ông nhận thức được rằng chính mỗi con người phải thức tỉnh, tìm kiếm tự do,
giải phóng cho chính mình thì khi ấy mới thực sự là tự do.Ông đề cao vai trò của
mỗi cá nhân trong việc tự giải phóng mình bởi khi tự do con người mới thực sự
là chính mình, số phận cá nhân mới thực sự nằm trong tay họ.
“Tự
do nhân dân và cuộc thanh bình
Sẽ
là kẻ đứng cạnh muôn đời bên ngôi báu”
Như vậy, thơ trữ tình Pushkin đã thể hiện một cách thấm thía và sâu sắc về
số phận cá nhân con người, đó là những con người của nước Nga thời đại bấy giờ.
1.2.
Vấn đề vận mệnh nước Nga trong thơ Pushkin
Vấn đề vận mệnh nước Nga là một vấn đề được thể hiện rõ
nét trong thơ Pushkin. Một đặc điểm nổi bật trong tâm hồn thơ, tư duy thơ của
ông là nhạy cảm, đặc biệt với những yêu
cầu lịch sử bức thiết trong quá trình vận động đi lên của toàn xã hội, trong
quá trình mỗi con người vươn tới khát vọng giải phóng cao đẹp hài hòa. Ông là
nhà thơ của thực tế, thi sĩ luôn gắn cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của mình vào
số phận, sự nghiệp chung của đất nước. Thế kỉ Pushkin sống là thế kỉ bạo tàn
như nhà thơ đã xác định, nhưng đồng thời cũng là thế kỉ mở đầu cuộc đấu tranh
giải phóng của nhân dân Nga. Năm 1812, cả dân tộc đứng dậy quả cảm, đập tan cuồng
vọng cá nhân tàn bạo của Napoleon. Cuộc cách mạng tháng Chạp năm 1825 bùng cao
lên ngọn lửa yêu cầu dân chủ tiến bộ. Sức vang vọng của hai sự kiện lịch sử trọng
đại đó đã hằn sâu vào những cảm xúc trữ tình của hồn thơ Pushkin, trở thành
năng lượng tiềm tàng trong những dây đàn của những “chiếc đàn thiêng” của nhà
thơ. Thơ Pushkin vang lên âm điệu trữ tình về những ngày tháng chiến tranh ái
quốc, về chiến công hiển hách Pontava của Pie đại đế, về những chiến sĩ tháng
Chạp bị lưu đày, lao động khổ sai trong một lòng sâu hầm mỏ Xiberi hay rung
vang lên những nỗi niềm riêng tư – gặp gỡ, biệt li, yêu thương, hờn giận, hân
hoan, đau khổ, tin tưởng, hoài nghi,… Chúng ta vẫn thấy có một dòng mạch gần
xa, trực tiếp hay gián tiếp nào đó với hai sự kiện lịch sử ấy.
“Tình yêu hi vọng và vinh quang êm ả
Ru ngủ bịp lừa chẳng được bao lâu
Những niềm vui thời niên thiếu tàn mau
Như giấc mơ, như mù sương mai sớm
Nhưng hồn ta vẫn cháy lên khát vọng
Dưới ách đề của chính thể bạo tàn”
Cảm quan lịch sử cuộn trào lên trong những dòng thơ nóng
bỏng của Pushkin khi 19 tuổi. Thơ Pushkin nắm bắt được mối quan hệ thống nhất
giữa Tổ quốc – tự do - nhân dân. Tư tưởng tự do được kết hợp với tinh thần yêu
nước một cách chặt chẽ. Thơ Pushkin còn có tính dự báo về vận mệnh đất nước khi
nói đến sự sụp đổ tất yếu của chế độ độc tài chuyên chế, dự báo về sự xảy ra và
chiến thắng của cách mạng đem đến tự do cho con người. Bài thơ Làng quê chính là một minh chứng rõ
nét. Đây là một trong những bài thơ
chính trị xuất sắc của Pushkin với điểm đặc sắc nhất là việc phát hiện ra quan
hệ thống nhất giữa tổ quốc – tự do – nhân dân:
“Yêu biết
mấy những thửa vườn xanh thắm
Với muôn hoa và bóng mát dịu dàng
Đồng cỏ xanh với đụn
rạ ngát hương…”
Trong cảnh tươi đẹp đó là cuộc sống bị đày đọa của những
người dân:
“Theo bắp cày
còng lưng tối mặt
Dưới làn roi
khổ nhục ê trề
Đàn nông nô
xơ xác chân lê
Trên luống đất
bọn chủ nô tàn ác
Dùng đòn roi
bức chiếm cho mình
Cả của cải, thời gian công sức”
Bài thơ đặt trong
dòng mạch nối liền với sự kiện năm 1812 có vai trò dự báo đối với việc sẽ diễn
ra một cuộc cách mạng và lịch sử đã trả lời cho dự báo ấy đó là cuộc cách mạng
tháng chạp năm 1825. Pushkin thể hiện mình như một ca sĩ tự do, gieo giống tự
do và là nhà tiên tri của ngày mai tươi sáng, vì thế thơ của Pushkin nghiêng về
cảm hứng: Tình cảm cộng đồng – công dân.
Nước Nga được ví như một ao tù lắm bờ ngăn vách chắn, ta
phải phá bờ ngăn vách chắn đó, muốn vậy phải có “giông tố”. Chính vì vậy, ngay
từ khi ngồi trên ghế nhà trường, Pushkin đã có những vần thơ nói rằng: Tự do là
động lực của lịch sử. Từ năm 1817 đến 1820, ông làm nhiều bài thơ về tự do hơn
cả, mang tính thời sự nóng bỏng của nước Nga. Chủ đề ấy được biểu hiện tập
trung và mãnh liệt nhất trong bài Tụng ca
tự do (1817):
“Ta muốn ngợi ca tự do cho trần thế
Ta
muốn đập vào những tật xấu gian ham
Đang nghiễm nhiên ngự trị trên
ngai vàng…”
Ở bài thơ này,
Pushkin ca ngợi những người chống lại vua chúa, ca ngợi tự do, bài thơ được xem
là bản tuyên ngôn nghệ thuật của Pushkin khi ông tuyên bố rõ lí tưởng cách mạng
của người thanh niên quý tộc. Dồng thời, khát vọng ấy cò được diễn tả bằng hình
ảnh buồm căng gí lộng, buồm cuộn sóng dâng trong bài Ánh mặt trời tắt (1820), hay trong bài Gửi biển (1824), tác giả mượn thiên nhiên để nói lên khát vọng của
mình
Pushkin rất rõ và
đau đớn về mối quan hệ giữa trị thống và bị trị, nó chi phối mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Từ đó nảy
sinh khát vọng đổi thay, khát khao đi tìm tự do ở “bến bờ xa lạ” (Chủ nghĩa
Byron). Nhưng “chạy trời cũng không khỏi nắng”, ý thức những vần thơ ông vẫn
kêu gọi nhân dân đứng dậy đấu tranh, ông kêu gọi “giông tố” đến trong nước Nga:
“Hỡi những anh nông nô lầm than
Hãy dũng cảm đấu tranh mà đứng dậy”
Đó chính là khát
khao về ngày mai tươi sáng tự do. Pushkin là người duy nhất kêu gọi người ta đứng
dậy
“Số phận người
cũng thế hỡi thi nhân”,
“Người gieo giống
tự do trên đồng vắng”.
Ông thể
hiện nỗi đau về sự thụ động của nhân dân:
“Tự do thay cho một bầy súc vật
Chúng
chỉ cần cắt xén và cạo lông”
Có thể thấy thơ Pushkin gắn bó mật thiết với vận mệnh lịch
sử nước Nga, Thơ ông không chỉ gắn sát với những sự kiện lịch sử dân tộc mà còn
có khả năng tiên tri dự báo cho những diễn biến tiếp theo của bước đi lịch sử,
đồng thời nổi bật hơn cả Pushkin chính là phát ngôn cho vấn đề tự do của nhân
dân và dân tộc, từ đó kêu gọi người dân đứng dậy đấu tranh giành lấy tự do cho
bản thân mình và dân tộc mình.
Số phận
cá nhân và vận mệnh nước Nga có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau. những con người với những nét tính cách cá nhân riêng biệt, những
con người khao khát tự do và một điểm chung nữa đó là số phận của họ đều gắn liền với số
phận nhân dân, vận mệnh nhân dân. Họ vừa là chính họ và vừa là một phần của nước
Nga. Ngược lại, vận mệnh nước Nga chính là cơ sở tạo nên những số phận con người ấy.
2.
Số phận cá nhân và vận mệnh
nước Nga trong thơ ca Nga
Trong nền văn học Nga, không chỉ riêng Pushkin mà hầu hết
các nhà thơ đều gắn bó chặt chẽ số phận cá nhân mình với vận mệnh nước Nga, với
nhân dân Nga, dù sáng tác theo khuynh hướng nào các nhà thơ Nga đều gặp nhau ở
tư tưởng yêu nước, đó là một Exenhin đem thơ ca của mình gắn bó mật thiết với
thơ ca Nga. Ông là nhà thơ đã thể hiện thành công một
cách mãnh liệt những mâu thuẫn của thời đại cách mạng khi chỉ ra tính bi kịch
và sự vĩ đại của nó, khai mở sâu sắc thế giới phức tạp những trải nghiệm của
con người sống trong thực tại của những cuộc cách mạng. Exenhin được coi là nhà
thơ dân tộc bởi “tiếng hát” của ông là tiếng lòng của dân tộc Nga , mảng thơ viết
về nước Nga chiếm vị trí đặc biệt trong sáng tác của Exenhin, thơ viết về đề
tài Tổ quốc là những vần thơ được viết lên bởi một ý thức trách nhiệm của một
nhà thơ đã nói lên sự thật dù sự thật đó là thuốc đắng. Hay trong thơ của Alexander, vấn đề vận mệnh dân tộc,
số phận con người được thể hiện rất rõ ràng, cụ thể.
Thơ viết về đề tài Tổ quốc của Blok là thơ nói về nước Nga, vận mệnh nước Nga,
lòng yêu nước và tất cả những gì gắn bó với nước Nga. Trong khuôn khổ bài viết
có hạn của mình chúng sẽ chỉ đề cập đến vấn đề vận mệnh đất nước, số phận con
người trong thơ Alexander Block:
Trong những ngày Cách mạng Nga lần thứ nhất
1905, Blok đã viết bài Ý chí mùa thu
với thở dồn dập của cuộc sống khi nói về Tổ quốc nước Nga:
Xa xa tay áo mùa thu vẫy
Rực rỡ khoe màu như thêu ren...
Rực rỡ khoe màu như thêu ren...
……
Ta nghe
tiếng nước Nga ngấm rượu
Nghỉ chân nơi tửu quán đường xa.
Nghỉ chân nơi tửu quán đường xa.
Blok
tự coi mình nằm dưới sự sai khiến của nước Nga, coi mình là một phần bé nhỏ của
nước Nga, là đứa con của nước Nga, thở chung nhịp thở với đất nước và nhân dân
khi đất nước sắp có những cơn biến động lớn lao. Nước Nga và nông thôn Nga nơi
Blok đang sống là nguồn vô tận tạo ra niềm
tin của nhà thơ trẻ đối với sự tất yếu không thể đảo ngược của cuộc nổi dậy sẽ
làm đổi thay bộ mặt thế giới.
Bài thơ dài tuyệt tác
trong thơ trữ tình yêu nước của Blok là bài thơ Trên bãi chiến trường Kulikovo gồm năm chùm thơ, 120 câu thơ. Nhà
thơ muốn tái hiện trang sử của cuộc chiến tranh ái quốc của nhân dân Nga cuối
thế kỷ XIV, ghi lại bức tranh của trận chiến đấu quyết liệt của nhân dân Nga
với Liên minh bộ lạc Tarta - Mông Cổ do tên tướng Mamai cầm quyền. Mạch thơ trữ
tình yêu nước của Blok vang lên tha thiết, sâu đậm như tiếng nói tự đáy lòng
của những người con yêu đối với nước Nga Mẹ hiền, xót xa trước cảnh "Chiến
trận triền miên. Ta chỉ mong thấy được bình yên. Qua máu và qua bụi...".
Cuộc cách mạng lần thứ nhất thất bại đã
gieo vào lòng nhà thơ một tâm trạng nặng nề. Nhưng nhà thơ không mất lòng tin ở
tương lai. Nước Nga trong thơ Blok được miêu tả trong sự vận động đi tới, trong
viễn cảnh lãng mạn đầy hy vọng. Ðến năm 1913 thì Blok đã viết những lời tiên
đoán quả quyết về nước Nga Tổ quốc mình: "Có một nước Nga thoát thai từ
một cuộc cách mạng đang say mê nhìn về đôi mắt của một cuộc cách mạng khác có
lẽ còn khủng khiếp hơn”. Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) đã truyền cho nhà thơ cảm hứng cao độ
phải ghi lại bằng thơ một cái gì đó rất đặc trưng cho thực tại nước Nga lúc bấy
giờ. Blok thấy rõ cách mạng là sức mạnh của chủ nghĩa tập thể. Cảm hứng trào
dâng khiến Blok viết một mạch hai mươi ngày liền và tháng Giêng năm 1918 nhà
thơ đã hoàn thành một kiệt tác chân thực về Cách mạng Tháng Mười Nga - đó là
trường ca Mười hai.
Trường ca Mười hai là
đỉnh cao trong sáng tác của Blok, là trường ca đầu tiên viết về cách mạng vô
sản ở nước Nga, về cuộc xung đột giữa thế giới cũ và thế giới mới, sự tất yếu
sụp đổ thế giới cũ và sự bắt đầu một kỷ nguyên mới ở nước Nga.
Coi mình là phần nhỏ bé
máu thịt của Tổ quốc, Blok đã trở thành nhà thơ đích thực của nước Nga. Dù là
sáng tác thơ về đề tài tình yêu, cuộc sống riêng tư, đề tài nhân dân hay đề tài
Tổ quốc, lúc nàoBlok cũng khẳng định không thể có một thế giới nghệ thuật nào
tự nó tách riêng ra, dù thế giới ấy là thế giới tâm tình của riêng đôi lứa.
“ Những cơn lốc của tâm hồn tuyệt diệu
Đồng chí hỡi, tin đi, sao rạn chiếu”
Như vậy, số phận cá nhân và vận mệnh đất nước Nga không
chỉ hiện hữu trong thơ ca Pushkin nói
riêng mà còn được thể hiện trong thơ ca Nga nói chung, đó là ngọn nguồn cảm hứng
sáng tạo vô hạn của những nhà thơ Nga, họ viết về đất nước, con người Nga một
cách rất giản dị chân thành, qua đó thể hiện tình yêu thương sâu sắc đối với xứ
sở Bạch Dương ấy.
IV.
Tổng kết
Pushkin là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của
nước Nga. Nỗi buồn trong thơ ông đa dạng về chủ đề, đối tượng, cảm xúc nhưng tựu
chung lại chúng đều là những “Nỗi buồn sáng trong”. Nỗi buồn ấy không bị lụy,
thê lương mà vẫn có xu hướng vươn tới ngày mai, chiến thắng nỗi buồn. Có được nỗi
buồn sáng trong ấy chính là do nhà thơ đã ý thức được quy luật vận đọng của cuộc
sống, có được điểm tựa tinh thần vô giá, đó là điểm tựa cội nguồn, hơi ấy tình
người, khát vọng sáng tạo không bao giờ tắt.
“Nỗi buồn sáng trong” trong thơ Pushkin chính là nỗi
buồn nhẹ nhàng với hình tượng trung tâm là cỗ xe tam mã, luôn có xu hướng vận động
hướng tới ngày mai chiến thắng nỗi buồn để vươn tới điều tốt đẹp hơn.
Trong thơ Pushkin nói riêng và thơ Nga nói chung, vấn
đề số phận con người, vận mệnh dân tộc và con người cá nhân được đề cập phổ biến
và sâu sắc. Vấn đề con người và vận mệnh dân tộc xuất hiện chủ yếu trong các bản
trường ca, gắn với các sự kiện lịch sử và mang tính chất dự báo. Con người cá
nhân được nói đến một cách khá toàn diện, đó là những người anh hùng và cả những
người bình thường. Pushkin và các nhà thơ đã miêu tả cả những con người ích kỉ
lạnh lùng lẫn những con người giản dị, rộng rãi, tốt bụng. đặc biệt ông quan
tâm nhiều đến con người nghèo khổ dưới đáy xã hội, tinh thần nhân đạo được thể
hiện sâu sắc với cảm hứng ngợi ca tự do và thái độ cảm thông đối với những con
người bất hạnh.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Đỗ
Hải Phong chủ biên,Giáo trình Văn học Nga,NXB
Đại học Sư phạm, 2014.
2. Nguyễn
Kim Đính, 1979, Puskin-Nguồn thơ thấm sâu
cảm quan lịch sử hiện thực, Tạp chí văn học số 5
3. Nguyễn
Hải Hà, 2010, Puskin bàn về thơ và nhà
thơ, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 9, T3-17
4. Alexander
Tvardovski, Puskin mãi mãi là nhà thơ vĩ
đại nhất, Tạp chí văn học nước ngoài số 3
9. http://vanhocnga.blogspot.com/2015/07/pushkin-yeu-thich-su-can-oi-va-hai-hoa.html
CHỤP X – QUANG LÀ GÌ?
Trả lờiXóaX – Quang là một loại bức xạ năng lượng cao. Kĩ thuật chụp X – Quang là sử dụng máy phát ra các chùm tia X có bức xạ cao xuyên qua các mô mềm và thành phần dịch trong cơ thể. Từ đó, tạo hình ảnh trên phim và trở thành cơ sở để bác sĩ chẩn đoán bệnh chính xác.>>> Phòng khám bệnh và chụp X - quang tốt nhất