Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Thế nào là “nỗi buồn sáng trong” trong thơ A.Pushkin? Phân tích bài thơ Con đường mùa đông ? Chủ đề đường đời, vấn đề số phận cá nhân và vận mệnh nước Nga trong thơ Pushkin và thơ Nga nói chung

HỌC PHẦN: THỂ LOẠI VÀ CÁC TÁC GIA TIÊU BIỂU
VĂN HỌC ĐÔNG ÂU – NGA
Đề tài: Thế nào là “nỗi buồn sáng trong” trong thơ A.Pushkin? Phân tích bài thơ Con đường mùa đông ? Chủ đề đường đời, vấn đề số phận cá nhân và vận mệnh nước Nga trong thơ Pushkin và thơ Nga nói chung.
Bài làm
I.           Khái quát chung.
1.     Tác giả
-         A.S.Pushkin sinh năm 1799 trong một gia đình quý tộc tại Moskva. Họ nội là một dòng họ quý tộc Nga lâu đời còn mẹ là người thuộc dòng dõi của người Arap nổi tiếng.
-         Pushin được học tiếng Pháp từ nhỏ. Tiếng Nga và văn hóa Nga được ông tiếp thu từ những lời dạy của bà thuộc tầng lớp quý tộc cung đình cổ xưa và đặc biệt từ những bài ca dân gian.
-         Từ năm lên 8, 9 tuổi Pushkin bắt đầu sáng tác bằng việc học tập phong cách của nhiều nhà thơ thuộc các khuynh hướng khác nhau từ các nhà thơ Nga đến các nhà thơ phương Tây từ cổ điển đến hiện đại và đem lại cho những hình thức thơ cũ những ý thơ mới hết sức thú vị và bất ngờ.
-         Vì sáng tác những bài thơ kêu gọi nhân dân đứng lên đấu tranh cho tự do, chống lại chính quyền nông nô chuyên chế nên Pushkin bị Nga hoàng đày xuống phương Nam. Trong thời gian bị đi đày, Pushkin đã từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn để tìm đến với chủ nghĩa hiện thực.
-         Pushkin được mặc nhiên thừa nhận là “Mặt trời của thi ca Nga”. Trong hơn 20 năm sáng tác ông đã để lại một gia tài văn học đồ sộ với hầu hết các thể loại: thơ, kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết bằng thơ,..
-         Ông chết trong một cuộc đấu súng để bảo vệ danh dự cho vợ của mình, người phụ nữ được ông hết mực yêu chiều và xem là tất cả.
        “Nhà thơ đấu súng nào quen
          Với ích kỉ, với nhỏ nhem không hòa
          Tràn nhân hậu, quá vị tha
           Diệu kì là tấm lòng Nga trọn đời”
(Với Pushkin- Ngô Viết Dinh)
2.            Tác phẩm
-         Bài thơ Con đường mùa đông được Pushkin sáng tác vào mùa đông năm 1826. Nỗi buồn của riêng nhà thơ đang bị đi đày ở Mikhailovskoie hòa với nỗi buồn chung của dân toocjsau thất bại của cuộc khởi nghĩa Tháng chạp năm 1825 làm tăng them ấn tượng giá lạnh “mùa đông” trong bài thơ.
-         Ý thức về quy luật vận động của cuộc sống với những điểm tựa của nó đã làm cho nỗi buồn trong thực tại không còn đáng sợ, nó đã có thể trở thành “sáng trong”.
II.       “Nỗi buồn sáng trong” trong thơ Pushkin
1.     Đặc điểm của “nỗi buồn sáng trong” trong thơ Pushkin
Một mảng đề tài lớn trong thơ Puskin, đó là, ông làm thơ ca ngợi vẻ đẹp tinh thần con người, về tình yêu, tình bạn, ước mơ, khát vọng, niềm vui sống về ý chí và sức mạnh của con người vượt lên mọi buồn đau. Bên cạnh những bài thơ ngập tràn tinh thần lạc quan với niềm tin vào tương lai trong sáng Tự do (1817), hay tiếng reo vui đắm say cuộc sống Buổi sáng mùa đông (1829) Tửu thần ca (1825) Puskin có không ít bài thơ nói về nỗi buồn. Tuy nhiên, thơ Puskin có thể buồn nhưng không bi lụy: “Tôi vừa buồn vừa thanh thản. Nỗi buồn của tôi sáng trong” (Trên đồi Grudia, 1829).
“Nỗi buồn sáng trong” ấy xuất hiện trong thời kì nhà thơ bị lưu đày ở phương Bắc. Thời kì đó công việc sáng tác của Puskin không hề thuận lợi. Có lúc ông bị khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Nhưng cũng vào lúc đó, thiên thần hộ mệnh Kernơ của ông xuất hiện . Chính tình yêu cao cả đã cứu Puskin và trả lại cho ông niềm cảm xúc tuyệt vời. Puskin đã viết lên những câu thơ kì diệu:
Anh nhớ mãi phúc giây huyền diệu
          Trước mắt anh em bỗng hiện lên
                   Như hư ảnh mong manh chợt biến
                   Như thiên thần sắc đẹp trắng trong
                                          ...
                    Quả tim lại rộn ràng náo nức
                    Vì trái tim sống dậy đủ điều
                    Cả tiên thần, cả nguồn cảm xúc
                       Cả đời, cả lệ, cả tình yêu
Từ đây, nhiều kiệt tác trữ tình của thơ ca Nga xuất hiện: Con đường mùa đông, Lá thư bị đốt cháy. Những bài thơ này thường đượm một vẻ buồn, khi phảng phất, khi sâu lắng nhưng sắc điệu cơ bản của chúng vẫn là một nỗi buồn sáng trong
        “Nỗi buồn sáng trong” là từ quen thuộc, đặc trưng riêng để chỉ những nỗi buồn trong nhiều bài thơ của Puskin. Trước hết, đó là những nỗi buồn,là những xúc cảm của nhà thơ, nỗi lòng sầu muộn về con người về đất nước và về chính bản thân mình. Nỗi buồn ấy thấm vào cảnh vật, hay chính sự vật là phương tiện để khắc khoải nỗi buồn của Puskin. Trong nỗi buồn ấy là sự cô đơn giữa cuộc đời, nỗi buồn về số mệnh đất nước về nỗi đau của nhân dân và buồn cho thân phận của nhà thơ. Nỗi buồn không hề ẩn dấu mà nó thể hiện ngay trong từng câu chữ, từng hình ảnh thơ, có khi lặp lại rất nhiều lần từ “buồn” “sầu” trong một bài thơ. Dường như nỗi buồn đã lan tỏa bao trùm bài thơ.
        Tuy nhiên, điều đặc biệt trong nỗi buồn của Puskin, nỗi buồn ấy không hề bi lụy, thê lương mà mang một vẻ rất sáng trong. Điều này thể hiện trong nhiều bài thơ của ông, đặc biệt là “Con đường mùa đông”. Trong nỗi buồn ấy luôn có sự vận động hướng tới ngày mai, luôn có ý thức chiến thắng nỗi buồn , vươn tới điều tốt đẹp hơn. Trong bài “Con đường mùa đông” chính là hình tượng con đường như là biểu tượng có hướng chiến thắng nỗi buồn.
        Họ luôn tìm được những niềm hạnh phúc để vượt qua nỗi buồn ấy. Đó chính là những điểm tựa tinh thần vô giá, điểm tựa tình yêu lứa đôi, tình yêu gia đình và quê hương xứ sở. Có được nỗi buồn sáng trong ấy là nhờ nhà thơ ý thức được quy luật vận động của cuộc sống, điểm tựa cội nguồn, hơi ấm tình người, khát vọng sáng tạo không tắt ở trong lòng mình. Đó chính là thứ giúp nhà thơ tin tưởng vào ngày mai, sưởi ấm lòng mình để chiến thắng nỗi cô đơn giá lạnh, nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn.
 Nỗi buồn ấy gắn với hình ảnh thiên nhiên đẹp dịu dàng, trong sáng như trăng, tuyết, hoa, những ánh lửa, con đường…gợi sự êm đềm, man mác, bình thản, tâm trạng con người vì thế cũng không hề dữ dội, bi thương. Đọc bài thơ, người đọc thấm được cảm xúc u hoài của nhà thơ, nhưng để lại trong tâm trí là nỗi buồn khắc khoải, sâu lắng, và thật nhẹ nhàng và bản thân người đọc cũng tìm thấy cho mình hy vọng, sự ấm áp quyện trong đó.Để lại trong lòng bạn đọc dư âm sầu muộn chứ không phải sầu đau, không bi lụy, đau thương mà là “buồn giăng xa”, “buồn tẻ”, khiến người ta suy nghĩ nhưng không đau đáu, ám ảnh. Đấy chính là nỗi buồn trong sáng mà Puskin gửi đến chúng ta.
Nỗi buồn sáng trong ấy còn thể hiện trong nhiều bài thơ về tình yêu cuả Puskin. Thơ Puskin không thiếu những cảm giác đớn đau nhưng không hề vị kỉ. Trong tình yêu, nhân vật trữ tình của Puskin bao giờ cũng ý thức được sự thay đổi tình cảm theo thời gian và luôn biết đặt hạnh phúc của người mình yêu lên cao hơn nỗi đau của chính mình Tôi yêu em(1829), Một chút tên tôi với nàng (1830), Không, tôi không nên, không dám, không thề (1832)… Tình yêu với Puskin không đơn thuần là tình cảm giới tính, nó còn là nguồn lực sống, nguồn lực sáng tạo.
Nỗi buồn sáng trong trong thơ Puskin chính là một đặc điểm lớn trong thơ trữ tình của ông. Một nỗi buồn luôn có sự vận động với điểm tựa tinh thần, mang lại ý thức, khát khao vượt qua nó. Đó còn là nỗi buồn sáng trong của tình yêu, một tình yêu đầy vị tha, yêu thương nhưng đầy lí trí của nhà thơ Puskin.

2.     Nỗi buồn sáng trong” trong bài thơ Con đường mùa đông
Có những con đường đã đi vào thơ văn như một huyền thoại. Và với Pushkin- nhà thơ vĩ đại không chỉ của văn học Nga mà còn của văn học thế giới đã góp vào văn học một con đường sống mãi với thời gian. Đó là “Con đường mùa đông” của nước Nga.  “Con đường mùa đông” là một bài thơ trữ tình thấm đẫm nỗi buồn, nhưng nỗi buồn ở đây mang một đặc điểm rất riêng cho thơ Pushkin. Đó là “Nỗi buồn sáng trong”.
Xuyên những làn sương gợn sóng
Mảnh trăng mờ ảo chiếu qua
Buồn dải ánh vang lai láng
Trên cánh đồng buồn giăng xa
Nỗi buồn, nỗi cô đơn của nhân vật được thể hiện ngay từ khổ đầu và xuyên suốt toàn bộ bài thơ. Nỗi buồn được tác giả thể hiện thông qua các hình ảnh “làn sương”, “mảnh trăng” được xuất hiện cùng với các động từ mạnh “xuyên” “chiếu”, lại nằm trong một không gian trải rộng “lai láng”, “giăng xa” đã tạo nên một không gian mênh mông, lạnh lẽo. Trong không gian đó, con người lại cành thu nhỏ mình lại, càng trở nên nhỏ bé và cô đơn. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình không chỉ thể hiện gián tiếp thông qua các hình ảnh mà còn được bộc lộ trực tiếp thông qua hai câu thơ cuối của khổ một. Nỗi buồn không chỉ ở xung quanh nhân vật trữ tình mà đã trải rộng suốt cả chiều dài và chiều rộng của không gian, bao phủ lấy con người và thể hiện sự thống trị tối đa với con người.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất Pushkin chỉ miêu tả không gian thiên nhiên thì đến với khổ thơ thứ hai, hình ảnh con đường và con người đã được xuất hiện:
Trên con đường mùa đông vắng vẻ 
Cỗ xe tam mã băng đi 
Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ 
Đều đều khắc khoải lòng quê 
Như để khẳng định thêm cho chủ đề của bài thơ, sự xuất hiện của con đường ngay lập tức đi cùng với nỗi buồn, đó là  “mùa đông” sự “vắng vẻ”. Hình ảnh con đường  xuất hiện làm người đọc liên tưởng đến một sự giải thoát nhưng dường như vì nằm trong không gian mênh mông của nỗi buồn nên con đường ở đây không còn ý nghĩa như ban đầu. Ta biết rằng con đường được đặt trong bối cảnh không gian thời gian buồn vào ban đêm vắng lặng trong mùa đông lạnh lẽo, nó chạy qua cánh đồng mênh mông không một ánh lửa mái lều, nghĩa là cuộc hành trình của con người ấy không có điểm dừng để nghỉ ngơi, không có hơi ấm con người mà chỉ có một cỗ xe tam mã băng đi về phía trước, “xe vun vút lao đi”.  Hình ảnh cỗ xe tam mã (loại xe nhỏ, có 1-2 người ngồi, do chính Pushkin phác họa nên) đi nhanh như  “băng” trên mặt đất đã thể hiện cho sự vượt lên hoàn cảnh. Hình ảnh cỗ xe tam mã trã trở thành biểu tượng cho sự vận động bay lên của văn học Nga. Ở khổ thơ thứ hai còn có sự xuất hiện của âm thanh, nhưng âm thanh ở khổ thơ thứ hai cũng nhuốm màu của nỗi buồn “Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ”. Trong khổ thơ thứ hai tác giả có sử dụng phép điệp ngữ “đều đều” đã càng nhấn mạnh tâm trạng trong toàn bộ bài thơ. Đấy không chỉ còn là nỗi buồn mà còn là sự mệt mỏi của nhân vật trữ tình. Trong khổ thơ thứ hai, bên cạnh sự xuất hiện của các hình ảnh còn xen vào đó là các âm thanh của cỗ xe “nhạc ngựa”. Nhưng tất cả chỉ góp phần tạo nên một không gian buồn bã mênh mông mà không có điểm dừng.
Những bài thơ của Pushkin đều mang một tâm trạnh buồn, thế nhưng nỗi buồn trong thơ Puskin lại mang những dấu ấn đặc biệt với người đọc. Đó là “nỗi buồn sáng trong”. Nỗi buồn ấy thể hiện khá rõ trong khổ thơ thứ ba:
Bài ca của người xà ích 
Có gì phảng phất thân yêu: 
Như niềm vui mừng khôn xiết 
Như nỗi buồn nặng đìu hiu.
Nếu như ở hai khổ thơ trên, nhân vật trữ tình chìm đắm trong nỗi buồn mà không có lối thoát thì đến đây tâm hồn như dịu lại trong tiếng hát “ngân nga” của người xà ích. Khúc hát vang lên “thân thiết”, bài dân ca Nga lúc vui, lúc buồn như đang xoa dịu bao nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Đến đây, bài thơ đã có phần trở nên vui tươi hơn bởi tiếng hát của người xà ích khiến nhân vật trữ tình nhớ đến cội nguồn quê hương trong đêm thanh vắng. Đây chính là “nỗi buồn sáng trong” của Pushkin trong bài thơ này. Có được nỗi buồn sáng trong ấy là nhờ nhà thơ không thoát li vào mộng tưởng mà củng cố dũng khí nhìn thẳng vào thực tại nghiệt ngã, ý thức được quy luật vận động của cuộc sống, ý thức được điểm tựa cội nguồn, hơi ấm tình người, khát vọng trong lòng mình dù ở trong mọi hoàn cảnh. Chính những điểm tựa đó đã làm cho nỗi buồn trong thực tại không còn đáng sợ, nó đã có thể trở thảnh sáng trong, nỗi buồn  không còn đậm nét và đơn điệu nữa mà đã được xoa dịu bởi những âm thanh quen thuộc kia. Âm thanh từ tiếng hát đã làm cho nhân vật trữ tình bớt cô đơn và mơ về mái ấm ở khổ bốn:
Không một mái lều, ánh lửa...
Tuyết trắng và rừng bao la...
Chỉ những cột dài cây số
Bên đường sừng sững chào ta

Trong không gian vắng vẻ đìu hiu, nhân vật trữ tình luôn mơ về một mái ấm, nơi đó xuất hiện ánh lửa ấm nồng. Thế nhưng chỉ có những “cột cây số” hữu tình mà vô cảm đang ngược chiều, chạy tới, không gian đã trải rộng lại trải rộng thêm ra. Tác giả lấy những cái hư vô ở ngoại cảnh để nói những cái hữu hình trong tâm tưởng nhân vật. Các cặp đối lập giữa sự ấm cúng trong tâm tưởng với sự lạnh lẽo và sự thật ở bên ngoài đã càng làm khắc sâu hơn tâm trạng xuyên suốt bài thơ của nhân vật. Ta thấy con đường xuất hiện với một sự cô đơn trong khung cảnh lạnh lẽo tô đậm nỗi buồn của nhân vật nhưng đồng thời hình tượng con đường ấy còn là biểu trưng cho sự vận động hướng về phía trước, nỗi buồn vì thế mà trở thành sáng trong. Khổ thơ thứ tư với vị trí bản lề đã tạo nên bước chuyển quan trọng trong tâm tưởng nhân vật, đó là dù bị bủa vây bởi không gian nhưng tâm trạng của nhân vật đã được tách ra để thấy rõ được những khắc khoải trong lòng.
Là một bài thơ để tả những nỗi buồn, “Con đường mùa đông” của Pushkin là một bức tranh được xây dựng bởi gam màu trầm và lạnh, với sự xuất hiện dày đặc của các từ ngữ chỉ nỗi buồn gắn với hình ảnh của thiên nhiên như là : “Mảnh trăng” “buồn dải ánh vang lai láng”, “Cánh đồng buồn giăng xa”, “con đường mùa đông vắng vẻ”, “nhạc ngựa đều buồn tẻ”, “Bài ca của người xà ích”, tất cả đã tạo nên những ấn tượng khó quên đối với độc giả. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã sử dụng nhiều cặp đối lập nhau để thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình trước hoàn cảnh.
Con đường mùa đông đã dài lạiđược kéo dài tưởng như vô tận. Bao phủ cảnh vật là màu trắng của tuyết, màu đen sẫm củarừng. Cảnh sắc thiên nhiên mùa đông nước Nga được miêu tả một cách tinh tế và chọn lọc nhằm tô đậm nỗi buồn cô đơn và lạnh lẽo của người lữ khách.
Đến với khổ thơ thứ năm, điều chúng ta nhận ra đầu tiên đó vẫn là nỗi buồn thấm đẫm:
“Ôi buồn đau, ôi cô lẻ…
Trở về với em ngày mai
Nhina, bên lò lửa đỏ
Ngắm em, ngắm mãi không thôi.”
Lời ca của ngườixà ích lúc như “vui mừng khôn xiết” lúc “buồn đặng đìu hiu” là ý thức về cội nguồn cũng không thể xoa dịu bao nỗi buồn cô đơn đầy ắp trong lòng người trên cỗ xe tam mã lao vun vút trên con đường phủ tuyết giữa đêm đông lạnhlẽo. Lời than“Ôi đau buồn, ôi cô lẻ…” nói lên nỗi buồn cô đơn của người đi đày. Ở đây, bao quát toàn bộ nỗi buồn được thể hiện bằng hai nỗi buồn chung- riêng là nỗi buồn cho thân phận, tình cảnh cá nhân hiện tại và cũng là nỗi buồn cho hoàn cảnh đất nước hiện giờ. Đằng sau dấu “…” kia còn bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu buồn đau và cô lẻ nữa? Chúng ta không phủ nhận nỗi buồn trong thơ Pushkin, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, nỗi buồn ấy “sáng trong” bởi nó không hề bi lụy. Ngay trong tiếng than ấy, không khó để nhận ra nó có hướng, hướng đến Nhina, hướng đến ý niệm tình yêu, đến hơi ấm của tình người. Nhà thơ thầm gọi tên người yêu trong tâm tưởng, Nhina ở giữa hai từ “ngày mai” và Nhina ở đó, phía cuối con đường, điểm đến của con đường kia chính là người yêu, là tình yêu, là hi vọng vượt qua “ngày mai” trở vềtrong mái ấm, trong sự sum họp đầy hạnh phúc. Trở về để ngắm Nhina bên lò lửa ấm yêuáp. Trong tuyết lạnhmà nghĩ về lò lửa đỏ ấm áp, mái ấm hạnh phúc gia đình, trong chia li mà nghĩ đến đoàn tụ, trong xavắng mà hi vọng trở về gặp người yêu thương, trong buồn đau mà tâm tưởng luôn hướng đến tương lai, không gian khác hạnh phúc, đó chính là “nỗi buồn sáng trong”.
Khổ thơ thứ năm khép lại để mở ra khổ thơ thứ sáu, vẫn là nỗi buồn có thể cảm nhận ngay trên bề mặt văn bản:
“Kim đồng hồ kêu tích tắc
Xoay đủ những vòng nhịp nhàng
Và xua lũ người tẻ ngắt
Để ta bên nhau trong đêm”
Nỗi buồn được thể hiện qua hình ảnh “kim đồng hồ” kêu một cách đơn điệu, nặng nề, xoay đi xoay lại những vòng giống như nhau. Không gian như tĩnh lặng, có thể nghe rõ cả tiếng kim đồng hồ càng nhấn mạnh sự cô đơn, buồn tẻ của con người. Nhưng đồng thời, ta cũng thấy rằng ở khổ thơ này, quy luật vận động được đẩy lên đến đỉnh điểm, đồng hồ đang “xoay” đánh dấu cho bước vận động của thời gian.Ý thức về “ngày mai” với “vòng quay” của thời gian được điểm bằng những tiếng kim đồng hồ xua đi “lũ người tẻ ngắt” để chỉ còn đọng lại tình yêu. Ở đây, chiếc đồng hồ và tiếng kêu “tích tắc” của nó phải chăng là vật luôn gắn bó với nhân vật, nhắc nhở baohoài niệm thương yêu? Nhân vật như chìm trong tâm tưởng với Nhina, đây có thể hiểu là mong ước của nhân vật được trở về để “bên nhau” trong hạnh phúc hay là niềm tin rồi thời gian sẽ đủ sức mạnh để xua đi mọi ngăn cấm, ràng buộc để cuối cùng vẫn giữ được hạnh phúc cho đôi ta. Hai khổ thơ 5, 6 như sự vận động diễn ra trong tâm tưởng nhân vật, con người như đang chìm đắm trong ý nghĩ về tình yêu với một người con gái Nga hiền dịu, người con gái ấy như trở thành động lực, là niềm tin, điểm tựa cho tâm hồn người vượt qua nỗi buồn.
Đến với khổ thơ cuối bài, đây như sự quay trở về với thực tại. Vẫn là một lời than về nỗi buồn, trong toàn bộ bài thơ này, lúc nào cũng thế, nỗi buồn luôn len sâu vào không gian, cảnh vật và trong cả tâm trạng con người.
“Sầu lắm. Nhina, đường xa vắng”
Lời than ấy như kéo Nhina về với thực tại đồng hành với chính nhân vật trữ tình, không phải vượt qua “ngày mai” để đến với Nhina nữa. Nhân vật như thầmnhắc tên người yêu để cố xua đi một phần nào nỗi buồn cô đơn. Khổ thơ cuối như tả sâu hơn tâm trạng người lữ hành, từ mơ tưởng trở về thực tại, vớicon đường mùa đông lạnh lẽo, con đường đi đày với nỗi buồn xa vắng. Đây là khổ thơ tổng kết những hình ảnh quan trọng trong bài thơ, mỗi một hình ảnh lại gắn với nỗi buồn nhưng mặt khác, hình ảnh ấy cũng gắn với “nỗi buồn sáng trong”. Đó là nỗi buồn nhưng đồng thời cũng gắn với điểm tựa tình yêu là Nhina, không chỉ vậy hình ảnh “đường xa vắng” lại quay trở lại, con đường ấy tẻ ngắt với “những cột dài cây số”, con đường mà con người đang đi buồn tẻ và cô đơn nhưng sứ mệnh của con người là đi trên con đường đó, con đường ấy dù “xa vắng” nhưng cũng thể hiện một sự vận động hướng về phía trước. Hình ảnh người “xà ích” gắn kết với “lặng im” không hát nữa, ta thấy nỗi buồn của nhân vật vì sự lặng im này nhưng cũng như thấy được tiếng hát ấy vẫn vang trong tâm tưởng con người. Ta thấy “nhạc ngựa đều đều buông xa thẳm”- một âm thanh buồn và đơn điệu nhưng cũng đồng nghĩa với thấy được đặc điểm bước vận động không ngững của cỗ xe. Hình ảnh cuối cùng của bài thơ “Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng” mang kết cấu đối xứng, cuối cùng, bóng tối che đi ánh sáng, nỗi buồn đẩy đến cực điểm nhưng không khép kín vì có vận động tâm tưởng không ngừng trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình: đó là sự ý thức rõ sứ mệnh của mình với những điểm tựa tinh thần như là hành trang của mình, nỗi buồn ấy không bi lụy vì nhân vật ý thức được những khó khăn, đó là quy luật vận động của cuộc sống, vì thế mà nỗi buồn không còn đáng sợ nữa. Nhân vật trữ tình giờ đây đồng hành với nỗi buồn, với ý thức chiến thắng nỗi buồn ngay trong chính nó, đó là “nỗi buồn sáng trong”. Hình ảnh con đường giờ đây chính là đường đời, chính ý niệm về không gian tươi sang, về ngày mai hạnh phúc làm nỗi buồn không còn bi lụy.
Để làm nên một bài thơ thành công với “nỗi buồn sáng trong” đậm nét không thể không nói tới những biện pháp nghệ thuật tiêu biểu được tác giả sử dụng. Bài thơ dường như có một kết cấu đối xứng với một kết cục buồn, mở đầu bằng hình ảnh mặt trăng “xuyên qua” những lớp sương mù, kết thúc bằng hình ảnh khuôn trăng mờ sương.Thể thơ ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với thời gian qua bước chân ngựa phi. Hình ảnh thơ giàu hội họa: cảnh vật, màu sắc, âm thanh, cung bậc của nỗi buồn tăng theo sự chuyển động của thời gian.Đặc điểm nổi bất của “Con đường mùa đông” là mỗi một hình ảnh, hay âm thanh xuất hiện trong bài dường như không phải chỉ mang một mục đích duy nhất là nhấn mạnh nỗi buồn mà còn là hướng vận động hay điểm tựa giúp nhân vật trữ tinh đấu tranh với nỗi buồn.  Nghệ thuật tương phản, đối lập (xe chạy đối lập với sự ngưng đọng, tiếng hát đối lập với sự im lìm, ước mơ chợt đến đối lập với nỗi buồn da diết) được sử dụng khắc họa rõ nét hơn nỗi buồn nhưng không bi lụy của con người.
Có thể khẳng định rằng, đây là một bài thơ thấm “nỗi buồn sáng trong”. Có được nỗi buồn sáng trong ấy là nhờ nhà thơ không thoát li vào mộng tưởng mà củng cố dũng khí nhìn thẳng vào thực tại nghiệt ngã, ý thức được quy luật vận động của cuộc sống, ý thức được điểm tựa cội nguồn, hơi ấm tình người, khát vọng sáng tạo không tắt trong lòng mình. Chính những điểm tựa đó đã làm cho nỗi buồn trong thực tại không còn đáng sợ. “Đến với bài thơ, ta gặp được chính con người Puskin, gặp những nỗi lo âu về số phận, sự khắc khoải về hạnh phúc, nhưng những cung bậc của nỗi buồn trong bài thơ không làm ủy mị trái tim mà làm nhân vật trữ tình thêm tha thiết yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp, củng cố niềm tin để vượt lên hoàn cảnh, số phận. Nỗi buồn ấy có tác dụng thanh lọc tình cảm, nỗi buồn rất Puskin, rất Nga, “nỗi buồn sáng trong” (Bieelixki)

III.           Số phận cá nhân và vận mệnh nước Nga trong thơ Pushkin và thơ ca Nga
1.     Vấn đề số phận cá nhân và vận mệnh nước Nga trong thơ Pushkin
1.1.         Vấn đề số phận cá nhân trong thơ Pushkin
Không một nhà văn nào trước Pushkin gắn bó với nhân dân chân thành và ruột thịt như Pushkin, ông là thi sĩ biết dùng lời ca để đốt tim người, làm cho con người tin tưởng hơn vào cuộc sống, cuộc đấu tranh. Thơ ông thấm nhuần tinh thần nhân đạo “đánh thức những tình cảm tốt đẹp” trong con người. Trung tâm chú ý của Pushkin là con người với mọi mặt phức tạp của thế giới nội tâm và mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Nói lên những cảm xúc, tâm tình tư tưởng của con người là phần nội dung quan trọng trong thơ trữ tình của Pushkin. Nhưng con người ở đây không phải là con người trừu tượng, lí tưởng mà là con người trong mối liên hệ lịch sử, trong tâm lí cụ thể và mọi mặt phong phú của cá tính.
          Số phận cá nhân được thể hiện một cách rõ nét trong thơ trữ tình Pushkin và đặc biệt trong các bài trường ca. Điều này ta có thể thấy rõ trong ba bản trường ca lớn của ông đó là: Ruxan và Liutmila, Người tù Capcaz và Đoàn người Sugan .
Với bài trường ca Ruxlan và Liutmila (1820), Pushkin đã là nhà thơ đầu tiên dám đưa vào bản trường ca những con người thật chứ không phải là những cái bóng, lần đầu tiên xuất hiện một con người sống thật biết yêu thương, buồn vui, căn giận, sống gần gũi với hiện thực. Trong bản trường ca này, Pushkin đã đưa vào cả những nhân vật anh hùng lẫn nhân vật bình thường, kết hợp những cái cao cả và cái tầm thường để từ đó làm nổi bật lên số phạn cá nhân con người.
Đến bản trường ca Người tù Capcaz, nhân vật chính ở đây lại là một con người thể hiện tính ích kỉ, lạnh lùng, anh ta chỉ chú ý đến việc chạy trốn cho riêng mình mà không hề nghĩ đến sự tự do của người khác. Ở đây Pushkin nói đến hình ảnh, số phận của một cá nhân nhưng đó cũng là hình ảnh đại diện cho một bộ phận thanh niên Nga thời đại bấy giờ: chỉ chú ý đến sự tự do của cá nhân mình.
Và cuối cùng là ở bản trường ca Đoàn người Sugan, số phận cá nhân được thể hiện rõ nét nhất trong ba bản trường ca. Nổi bật trong bản trường ca này là hình ảnh ông già Sugan, một con người giản dị, rộng rãi, tốt bụng và chịu đựng, hay nhân vật Aleco – một con người đầy mâu thuẫn, anh ta cũng là con người đại diện cho thanh niên Nga giống như nhân vật người tù Capcaz. Nhà thơ còn quan tâm đến hình ảnh những con người nghèo khổ, rách rưới, sống cuộc sống nay đây mai đó. Đó là nhưng sự thật trong đời sống Nga đương thời.
Trong những tác phẩm trường ca, Pushkin đã tỏ ra thông cảm sâu sắc đối với những đau khổ, bất bình, khát vọng tự do của con người. Ông chú ý đến số phận con người cá nhân, phản ánh nó một cách chân thực và sinh động nhất. Nhưng ở đó, số phận cá nhân được nhìn trong mối quan hệ gắn bó với số phận nhân dân, vận mệnh đất nước, mỗi hình tượng nhân vật của ông đều là đại diện cho một lớp người, một kiểu người nào đó trong xã hội nước Nga đương thời bởi thơ ông luôn đề cao vấn đề vận mệnh dân tộc.
Không chỉ thể hiện số phận cá nhân trong những bản trường ca mà Pushkin còn thể hiện điều đó trong những bài thơ của mình. Và chủ đề làm nổi bật số phận cá nhân con người chính là chủ đề ngợi ca tự do. Pushkin coi tự do là một điều kiện tiên quyết, và tự do dân tộc  phải gắn liền với tự do của của mỗi con người cá nhân. Sự tự do cá nhân này được ông diễn tả rất sinh động, có lúc ông diễn tả cuộc sống của mình như một con chim tự do bây giờ phải sống trong cái lồng chật hẹp để thể hiện khát khao mãnh liệt về tự do cá nhân.
                          “Bay bay đi, ta loài chim tự do
                           Bay về nguồn nước vô cùng trong sáng”
Ban đầu, Pushkin hi vọng có một vị vua anh minh đem lại tự do cho nhân dân, nhưng dần dần ông nhận thức được rằng chính mỗi con người phải thức tỉnh, tìm kiếm tự do, giải phóng cho chính mình thì khi ấy mới thực sự là tự do.Ông đề cao vai trò của mỗi cá nhân trong việc tự giải phóng mình bởi khi tự do con người mới thực sự là chính mình, số phận cá nhân mới thực sự nằm trong tay họ.
              “Tự do nhân dân và cuộc thanh bình
               Sẽ là kẻ đứng cạnh muôn đời bên ngôi báu”
Như vậy, thơ trữ tình Pushkin đã thể hiện một cách thấm thía và sâu sắc về số phận cá nhân con người, đó là những con người của nước Nga thời đại bấy giờ.
1.2.         Vấn đề vận mệnh nước Nga trong thơ Pushkin
Vấn đề vận mệnh nước Nga là một vấn đề được thể hiện rõ nét trong thơ Pushkin. Một đặc điểm nổi bật trong tâm hồn thơ, tư duy thơ của ông  là nhạy cảm, đặc biệt với những yêu cầu lịch sử bức thiết trong quá trình vận động đi lên của toàn xã hội, trong quá trình mỗi con người vươn tới khát vọng giải phóng cao đẹp hài hòa. Ông là nhà thơ của thực tế, thi sĩ luôn gắn cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của mình vào số phận, sự nghiệp chung của đất nước. Thế kỉ Pushkin sống là thế kỉ bạo tàn như nhà thơ đã xác định, nhưng đồng thời cũng là thế kỉ mở đầu cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Nga. Năm 1812, cả dân tộc đứng dậy quả cảm, đập tan cuồng vọng cá nhân tàn bạo của Napoleon. Cuộc cách mạng tháng Chạp năm 1825 bùng cao lên ngọn lửa yêu cầu dân chủ tiến bộ. Sức vang vọng của hai sự kiện lịch sử trọng đại đó đã hằn sâu vào những cảm xúc trữ tình của hồn thơ Pushkin, trở thành năng lượng tiềm tàng trong những dây đàn của những “chiếc đàn thiêng” của nhà thơ. Thơ Pushkin vang lên âm điệu trữ tình về những ngày tháng chiến tranh ái quốc, về chiến công hiển hách Pontava của Pie đại đế, về những chiến sĩ tháng Chạp bị lưu đày, lao động khổ sai trong một lòng sâu hầm mỏ Xiberi hay rung vang lên những nỗi niềm riêng tư – gặp gỡ, biệt li, yêu thương, hờn giận, hân hoan, đau khổ, tin tưởng, hoài nghi,… Chúng ta vẫn thấy có một dòng mạch gần xa, trực tiếp hay gián tiếp nào đó với hai sự kiện lịch sử ấy.
“Tình yêu hi vọng và vinh quang êm ả
Ru ngủ bịp lừa chẳng được bao lâu
Những niềm vui thời niên thiếu tàn mau
Như giấc mơ, như mù sương mai sớm
Nhưng hồn ta vẫn cháy lên khát vọng
Dưới ách đề của chính thể bạo tàn”
Cảm quan lịch sử cuộn trào lên trong những dòng thơ nóng bỏng của Pushkin khi 19 tuổi. Thơ Pushkin nắm bắt được mối quan hệ thống nhất giữa Tổ quốc – tự do - nhân dân. Tư tưởng tự do được kết hợp với tinh thần yêu nước một cách chặt chẽ. Thơ Pushkin còn có tính dự báo về vận mệnh đất nước khi nói đến sự sụp đổ tất yếu của chế độ độc tài chuyên chế, dự báo về sự xảy ra và chiến thắng của cách mạng đem đến tự do cho con người. Bài thơ Làng quê chính là một minh chứng rõ nét.  Đây là một trong những bài thơ chính trị xuất sắc của Pushkin với điểm đặc sắc nhất là việc phát hiện ra quan hệ thống nhất giữa tổ quốc – tự do – nhân dân:
                        “Yêu biết mấy những thửa vườn xanh thắm
                          Với muôn hoa và bóng mát dịu dàng
                          Đồng cỏ xanh với đụn rạ ngát hương…”
Trong cảnh tươi đẹp đó là cuộc sống bị đày đọa của những người dân:
                                “Theo bắp cày còng lưng tối mặt
                                  Dưới làn roi khổ nhục ê trề
                                  Đàn nông nô xơ xác chân lê
                                  Trên luống đất bọn chủ nô tàn ác
                                  Dùng đòn roi bức chiếm cho mình
                                  Cả của cải, thời gian công sức”
 Bài thơ đặt trong dòng mạch nối liền với sự kiện năm 1812 có vai trò dự báo đối với việc sẽ diễn ra một cuộc cách mạng và lịch sử đã trả lời cho dự báo ấy đó là cuộc cách mạng tháng chạp năm 1825. Pushkin thể hiện mình như một ca sĩ tự do, gieo giống tự do và là nhà tiên tri của ngày mai tươi sáng, vì thế thơ của Pushkin nghiêng về cảm hứng: Tình cảm cộng đồng – công dân.
Nước Nga được ví như một ao tù lắm bờ ngăn vách chắn, ta phải phá bờ ngăn vách chắn đó, muốn vậy phải có “giông tố”. Chính vì vậy, ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, Pushkin đã có những vần thơ nói rằng: Tự do là động lực của lịch sử. Từ năm 1817 đến 1820, ông làm nhiều bài thơ về tự do hơn cả, mang tính thời sự nóng bỏng của nước Nga. Chủ đề ấy được biểu hiện tập trung và mãnh liệt nhất trong bài Tụng ca tự do (1817):
               “Ta muốn ngợi ca tự do cho trần thế
                Ta muốn đập vào những tật xấu gian ham
                 Đang nghiễm nhiên ngự trị trên ngai vàng…”
Ở bài thơ này, Pushkin ca ngợi những người chống lại vua chúa, ca ngợi tự do, bài thơ được xem là bản tuyên ngôn nghệ thuật của Pushkin khi ông tuyên bố rõ lí tưởng cách mạng của người thanh niên quý tộc. Dồng thời, khát vọng ấy cò được diễn tả bằng hình ảnh buồm căng gí lộng, buồm cuộn sóng dâng trong bài Ánh mặt trời tắt (1820), hay trong bài Gửi biển (1824), tác giả mượn thiên nhiên để nói lên khát vọng của mình
Pushkin rất rõ và đau đớn về mối quan hệ giữa trị thống và bị trị, nó chi phối  mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Từ đó nảy sinh khát vọng đổi thay, khát khao đi tìm tự do ở “bến bờ xa lạ” (Chủ nghĩa Byron). Nhưng “chạy trời cũng không khỏi nắng”, ý thức những vần thơ ông vẫn kêu gọi nhân dân đứng dậy đấu tranh, ông kêu gọi “giông tố” đến trong nước Nga:
          “Hỡi những anh nông nô lầm than
            Hãy dũng cảm đấu tranh mà đứng dậy”
Đó chính là khát khao về ngày mai tươi sáng tự do. Pushkin là người duy nhất kêu gọi người ta đứng dậy
                             “Số phận người cũng thế hỡi thi nhân”,
                             “Người gieo giống tự do trên đồng vắng”.
 Ông thể hiện nỗi đau về sự thụ động của nhân dân:
“Tự do thay cho một bầy súc vật
           Chúng chỉ cần cắt xén và cạo lông”
Có thể thấy thơ Pushkin gắn bó mật thiết với vận mệnh lịch sử nước Nga, Thơ ông không chỉ gắn sát với những sự kiện lịch sử dân tộc mà còn có khả năng tiên tri dự báo cho những diễn biến tiếp theo của bước đi lịch sử, đồng thời nổi bật hơn cả Pushkin chính là phát ngôn cho vấn đề tự do của nhân dân và dân tộc, từ đó kêu gọi người dân đứng dậy đấu tranh giành lấy tự do cho bản thân mình và dân tộc mình.
Số phận cá nhân và vận mệnh nước Nga có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau. những con người với những nét tính cách cá nhân riêng biệt, những con người khao khát t do và một điểm chung nữa đó là số phận của họ đều gắn liền với số phận nhân dân, vận mệnh nhân dân. Họ vừa là chính họ và vừa là một phần của nước Nga. Ngược lại, vận mệnh nước Nga chính là cơ sở tạo nên những số phận con người ấy.
2.     Số phận cá nhân và vận mệnh nước Nga trong thơ ca Nga
Trong nền văn học Nga, không chỉ riêng Pushkin mà hầu hết các nhà thơ đều gắn bó chặt chẽ số phận cá nhân mình với vận mệnh nước Nga, với nhân dân Nga, dù sáng tác theo khuynh hướng nào các nhà thơ Nga đều gặp nhau ở tư tưởng yêu nước, đó là một Exenhin đem thơ ca của mình gắn bó mật thiết với thơ ca Nga.  Ông là nhà thơ đã thể hiện thành công một cách mãnh liệt những mâu thuẫn của thời đại cách mạng khi chỉ ra tính bi kịch và sự vĩ đại của nó, khai mở sâu sắc thế giới phức tạp những trải nghiệm của con người sống trong thực tại của những cuộc cách mạng. Exenhin được coi là nhà thơ dân tộc bởi “tiếng hát” của ông là tiếng lòng của dân tộc Nga , mảng thơ viết về nước Nga chiếm vị trí đặc biệt trong sáng tác của Exenhin, thơ viết về đề tài Tổ quốc là những vần thơ được viết lên bởi một ý thức trách nhiệm của một nhà thơ đã nói lên sự thật dù sự thật đó là thuốc đắng. Hay  trong thơ của Alexander, vấn đề vận mệnh dân tộc, số phận con người được thể hiện rất rõ ràng, cụ thể. Thơ viết về đề tài Tổ quốc của Blok là thơ nói về nước Nga, vận mệnh nước Nga, lòng yêu nước và tất cả những gì gắn bó với nước Nga. Trong khuôn khổ bài viết có hạn của mình chúng sẽ chỉ đề cập đến vấn đề vận mệnh đất nước, số phận con người trong thơ Alexander Block:
 Trong những ngày Cách mạng Nga lần thứ nhất 1905, Blok đã viết bài Ý chí mùa thu với thở dồn dập của cuộc sống khi nói về Tổ quốc nước Nga:
                                   Xa xa tay áo mùa thu vẫy
                                   Rực rỡ khoe màu như thêu ren...
                                               ……
                                   Ta nghe tiếng nước Nga ngấm rượu
                                   Nghỉ chân nơi tửu quán đường xa.
Blok tự coi mình nằm dưới sự sai khiến của nước Nga, coi mình là một phần bé nhỏ của nước Nga, là đứa con của nước Nga, thở chung nhịp thở với đất nước và nhân dân khi đất nước sắp có những cơn biến động lớn lao. Nước Nga và nông thôn Nga nơi Blok đang sống là nguồn vô tận tạo ra niềm tin của nhà thơ trẻ đối với sự tất yếu không thể đảo ngược của cuộc nổi dậy sẽ làm đổi thay bộ mặt thế giới.
Bài thơ dài tuyệt tác trong thơ trữ tình yêu nước của Blok là bài thơ Trên bãi chiến trường Kulikovo gồm năm chùm thơ, 120 câu thơ. Nhà thơ muốn tái hiện trang sử của cuộc chiến tranh ái quốc của nhân dân Nga cuối thế kỷ XIV, ghi lại bức tranh của trận chiến đấu quyết liệt của nhân dân Nga với Liên minh bộ lạc Tarta - Mông Cổ do tên tướng Mamai cầm quyền. Mạch thơ trữ tình yêu nước của Blok vang lên tha thiết, sâu đậm như tiếng nói tự đáy lòng của những người con yêu đối với nước Nga Mẹ hiền, xót xa trước cảnh "Chiến trận triền miên. Ta chỉ mong thấy được bình yên. Qua máu và qua bụi...".
          Cuộc cách mạng lần thứ nhất thất bại đã gieo vào lòng nhà thơ một tâm trạng nặng nề. Nhưng nhà thơ không mất lòng tin ở tương lai. Nước Nga trong thơ Blok được miêu tả trong sự vận động đi tới, trong viễn cảnh lãng mạn đầy hy vọng. Ðến năm 1913 thì Blok đã viết những lời tiên đoán quả quyết về nước Nga Tổ quốc mình: "Có một nước Nga thoát thai từ một cuộc cách mạng đang say mê nhìn về đôi mắt của một cuộc cách mạng khác có lẽ còn khủng khiếp hơn”. Cách mạng Tháng Mười Nga  (1917) đã truyền cho nhà thơ cảm hứng cao độ phải ghi lại bằng thơ một cái gì đó rất đặc trưng cho thực tại nước Nga lúc bấy giờ. Blok thấy rõ cách mạng là sức mạnh của chủ nghĩa tập thể. Cảm hứng trào dâng khiến Blok viết một mạch hai mươi ngày liền và tháng Giêng năm 1918 nhà thơ đã hoàn thành một kiệt tác chân thực về Cách mạng Tháng Mười Nga - đó là trường ca Mười hai.
Trường ca Mười hai là đỉnh cao trong sáng tác của Blok, là trường ca đầu tiên viết về cách mạng vô sản ở nước Nga, về cuộc xung đột giữa thế giới cũ và thế giới mới, sự tất yếu sụp đổ thế giới cũ và sự bắt đầu một kỷ nguyên mới ở nước Nga.
Coi mình là phần nhỏ bé máu thịt của Tổ quốc, Blok đã trở thành nhà thơ đích thực của nước Nga. Dù là sáng tác thơ về đề tài tình yêu, cuộc sống riêng tư, đề tài nhân dân hay đề tài Tổ quốc, lúc nàoBlok cũng khẳng định không thể có một thế giới nghệ thuật nào tự nó tách riêng ra, dù thế giới ấy là thế giới tâm tình của riêng đôi lứa.
                           “ Những cơn lốc của tâm hồn tuyệt diệu
          Đồng chí hỡi, tin đi, sao rạn chiếu”
Như vậy, số phận cá nhân và vận mệnh đất nước Nga không chỉ hiện hữu  trong thơ ca Pushkin nói riêng mà còn được thể hiện trong thơ ca Nga nói chung, đó là ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo vô hạn của những nhà thơ Nga, họ viết về đất nước, con người Nga một cách rất giản dị chân thành, qua đó thể hiện tình yêu thương sâu sắc đối với xứ sở Bạch Dương ấy.

IV.            Tổng kết
Pushkin là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nước Nga. Nỗi buồn trong thơ ông đa dạng về chủ đề, đối tượng, cảm xúc nhưng tựu chung lại chúng đều là những “Nỗi buồn sáng trong”. Nỗi buồn ấy không bị lụy, thê lương mà vẫn có xu hướng vươn tới ngày mai, chiến thắng nỗi buồn. Có được nỗi buồn sáng trong ấy chính là do nhà thơ đã ý thức được quy luật vận đọng của cuộc sống, có được điểm tựa tinh thần vô giá, đó là điểm tựa cội nguồn, hơi ấy tình người, khát vọng sáng tạo không bao giờ tắt.
“Nỗi buồn sáng trong” trong thơ Pushkin chính là nỗi buồn nhẹ nhàng với hình tượng trung tâm là cỗ xe tam mã, luôn có xu hướng vận động hướng tới ngày mai chiến thắng nỗi buồn để vươn tới điều tốt đẹp hơn.
Trong thơ Pushkin nói riêng và thơ Nga nói chung, vấn đề số phận con người, vận mệnh dân tộc và con người cá nhân được đề cập phổ biến và sâu sắc. Vấn đề con người và vận mệnh dân tộc xuất hiện chủ yếu trong các bản trường ca, gắn với các sự kiện lịch sử và mang tính chất dự báo. Con người cá nhân được nói đến một cách khá toàn diện, đó là những người anh hùng và cả những người bình thường. Pushkin và các nhà thơ đã miêu tả cả những con người ích kỉ lạnh lùng lẫn những con người giản dị, rộng rãi, tốt bụng. đặc biệt ông quan tâm nhiều đến con người nghèo khổ dưới đáy xã hội, tinh thần nhân đạo được thể hiện sâu sắc với cảm hứng ngợi ca tự do và thái độ cảm thông đối với những con người bất hạnh.


Danh mục tài liệu tham khảo:
1.     Đỗ Hải Phong chủ biên,Giáo trình Văn học Nga,NXB Đại học Sư phạm, 2014.
2.     Nguyễn Kim Đính, 1979, Puskin-Nguồn thơ thấm sâu cảm quan lịch sử hiện thực, Tạp chí văn học số 5
3.     Nguyễn Hải Hà, 2010, Puskin bàn về thơ và nhà thơ, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 9, T3-17
4.     Alexander Tvardovski, Puskin mãi mãi là nhà thơ vĩ đại nhất, Tạp chí văn học nước ngoài số 3

9.     http://vanhocnga.blogspot.com/2015/07/pushkin-yeu-thich-su-can-oi-va-hai-hoa.html

1 nhận xét:

  1. CHỤP X – QUANG LÀ GÌ?
    X – Quang là một loại bức xạ năng lượng cao. Kĩ thuật chụp X – Quang là sử dụng máy phát ra các chùm tia X có bức xạ cao xuyên qua các mô mềm và thành phần dịch trong cơ thể. Từ đó, tạo hình ảnh trên phim và trở thành cơ sở để bác sĩ chẩn đoán bệnh chính xác.>>> Phòng khám bệnh và chụp X - quang tốt nhất

    Trả lờiXóa