HỌC
PHẦN
THỂ
LOẠI VÀ TÁC GIA TIÊU BIỂU VĂN HỌC TÂY ÂU – MỸ
Giảng
viên: Nguyễn Linh Chi
Đề
tài: Cái cười trong Lão hà tiện của Moliere
Nhóm
3 :
1
: Nguyễn Tồn Khánh Linh B -k64
2
:Trịnh Thị Ngần B –k64
3
:Vũ Thị Huế B –k64
4
:Vũ Thúy Mai B - k64
5
:Khúc Thị Lan Hương B –k64
I
Khái quát chung
1.Tác giả
1.1 Cuộc đời
- Moliere ( 1622- 1673) tên thật là Jean – Baptiste Poquelin là nhà thơ, nhà viết kịch, nghệ sĩ người Pháp
, người sáng tạo ra thể loại kịch cổ điển, một bậc thầy của kịch nghệ châu Âu.
Ông được coi là nhà hài kịch vĩ đại nhất thế kỉ XVII.
- Moliere sinh ngày 16/01/1622 tại Paris
trong một gia đình thị dân được nhiều ân sủng của nhà vua. Lên 10 tuổi, ông mồ
côi mẹ. Ông học ở Jesuit Clermont College ( nay là Lycee Louis – le – Grand) ,
là nơi học sinh phần nhiều học bằng tiếng Latinh.
- Ông thông thạo tiếng Latinh và đã dịch
tác phẩm “ Về bản chất sựvật” của thi
hào Lucretius sang tiếng Pháp. Vào năm 1639, ông học xong Jesuit Clermont
College, năm 1639-1640 ông học luật tại Đại học Orlean. Bố của Moliere thường
nhắc con theo con đường của ông – nối tiếp chức vị trong cung đình ,nối nghiệp
chức vị trong cung đình . Tuy nhiên ông không theo ý cha, nhường công việc này
cho em trai và chọn nghề diễn viên.
- Vào năm 1643, ông cùng với gia đình anh
em Bejart thành lập đội kịch “ Illustre
Theatre” ( Trứ danh) và lấy biệt danh Moliere từ đây, đội kịch hoạt động được
hai năm thì vỡ nợ. Ông bị tống giam vì không có tiền trả nợ, sau đó ông được bố
mình chuộc ra.
- Ngày 17/2/1673 ông qua đời.
1.2 Sự nghiệp
- Vào mùa thu năm 1643, sau khi ra tù ông
cùng với một số người còn lại đi về lưu diễn ở tỉnh lẻ ở nước Pháp suốt 13 năm.
Để cạnh tranh với những đoàn kịch của Ý, Moliere đã sáng tác những vở kịch cho
đoàn của mình, dựa vào những lúc thâm nhập vào từng ngóc ngách của nước Pháp.
Năm 1655, ông viết vở kịch đầu tiên Létourdi(
Gàn dở) và năm sau 1656 viết vở Ledépit amoureux ( Bất hòa của tình yêu)
. Đến năm 1658, đoàn kịch của ông trở
thành đoàn kịch nổi tiếng nhất ở các tỉnh. Được sự ủng hộ của nhiều bá tước ,
trong số này có cả Quận công Philippe – em trai của vua Louis XIV, đoàn kịch của
ông được mời biểu diễn ở Louvre và đã gây được tiếng vang . Sau đó đoàn kịch của
ông thường xuyên được biểu diễn ở nhà hát Bourbon.
- Sự nghiệp sáng tác của ông được hình
thành và phát triển theo bốn giai đoạn lớn:
+ Trong giai đoạn đầu (1645-1658) giai đoạn
thang lang phiêu bạt, Moliere đã sáng tác những vở hài kịch đầu tiên Anh chàng ngớ ngẩn ( 1655) và Ghen ( 1656)
. Các vở kịch đầu tay ra đời ban đầu đã khẳng định tài năng của ông.
+ Giai đoạn tiếp theo ( 1659- 1663) , giai
doạn trưởng thành. Từ đây tiểu sử Moliere bước vào giai đoạn mới : giai đoạn đấu
tranh xây dựng một nền nghệ thuật sân khấu hiện thực.Ông khẳng định được tài
năng của mình với nhiều vở kịch mới. Mỗi tác phẩm là một đòn quyết liệt đánh
vào bọn quý tộc, nhà thờ…Đáng kể nhất là vở kịch Những ả cầu kì rởm (1659) đả kích bọn quý tộc ăn bám , nghèo nàn về
đạo đức và tâm hồn. Những vở Trường học
làm chồng (1661) và Trường học làm vợ(
1662) được công chúng chào đón nhiệt tình và là thành công lớn của ông. Năm
1663, ông viết hai vở bút chiến Phê bình Trường
học làm vợ (1663) và Kịch ứng diễn ở
Vecxây (1663) để chế giễu chống lại những kẻ luôn thù ghét ông .
+ Giai đoạn (1664- 1666) đây là giai đoạn
đánh dấu đỉnh cao phát triển của hài kịch Moliere với những kiệt tác Tactuyf (1664) và Đông Juăng (1665) ,Anh ghét đời
(1666) . Đây là những vở kịch chiếm vị trí đặc biệt trong sáng tác của ông. Những
tác phẩm này là đòn tấn công liên tiếp, dữ dội vào hiện thực tối đen của thời đại,
đả kích thói đạo đức giả.
+ Giai đoạn ( 1667- 1673) giai đoạn chuyển
hướng mũi nhọn vào giai cấp tư sản và những quan hệ xã hội của giai cấp này.
Ông cho ra đời những vở kịch lớn như Lão
hà tiện (1668) , Trưởng giả học làm sang (1670) , Những ngón nghịch của
Xcapanh (1671) và Người bệnh tưởng
(1672) . Đó là những tiếng nói giàu sắc điệu, những đòn giáng mạnh vào xã hội.
-Moliere để lại một di sản vô cùng đồ sộ
với hơn 30 vở kịch nhiều thể loại. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể
thành phim.
2. Tác phẩm Lão hà tiện (1668)
2.1. Thể loại hài kịch
Hài kịch là một thể loại văn học ( đối
lập với thể loại bi kịch) được sân khấu hóa dùng hình thức gây cười để đả kích,
phê phán thói xấu, hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Các nhân vật trong hài kịch
góp phần làm nên thành công cho tác phẩm hài kịch, là người mang đến tiếng cười
cho khán giả.Tiếng cười trong hài kịch là tiếng cười hài hước, vui nhộn đồng thời
là tiếng cười châm biếm và phê phán xã hội đương thời.
Hài kịch là “ thể loại trong đó tính
cách, tình huống và hành động được thể hiện dưới dạng buồn cười hoặc ẩn chứa
cái hài nhằm giễu cợt, phê phán cái xấu , cái lố bịch, cái lỗi thời để tống tiến
nó một cách vui vẻ ra khỏi đời sống xã hội”. Như vậy hài kịch thường hướng vào
sự cười nhạo cái xấu xa, cái kệch cỡm đối lập với lý tưởng xã hội hoặc chuẩn mực
đạo đức truyền thống. Nhân vật hài kịch thường “ không có sự tương xứng giữa thực
chất bên trong với danh nghĩa bên ngoài của mình” nên trở thành đáng chê cười.
Các tính cách trong hài kịch thường được mô tả một cách đậm nét, cận cảnh và ở
trạng thái tĩnh, nhất là những nét gây cười.
Trong
thời cổ điển hài kịch Pháp phát triển rất mạnh, thúc đẩy nền sân khấu kịch Pháp
trở nên đa dạng. Một số nhà soạn kịch đỉnh cao trong thời kì này như : về bi kịch
có P.Corneille, J.Racine; về hài kịch có Moliere.
Hài kịch xuất hiện đã góp phần thúc đẩy cho sự phát triển các thể loại văn học
sân khấu Pháp và sân khấu cổ điển thế giới.
2.2. Tóm tắt tác phẩm
Vở
kịch được công diễn lần đầu vào ngày 9/9/1668 trên sân khấu của Hoàng cung. Tác
phẩm được tác giả lấy từ đề tài tác phẩm Cái
hũ vàng của Plautus , nhà viết kịch nổi tiếng thời La mã cổ đại.
Harpagon
là một gã nhà giàu có, góa vợ, có một con trai tên là Cleante và một con gái
tên là Elise.Lão có một tráp đựng một vạn Êquy được cất giấu trong vườn. Do đó
lão nghi ngờ tất cả mọi người trong gia đình, thậm chí ngay cả hai đứa con mình
vì lão sợ họ trộm cái tráp của mình. Lão dè sẻn từng đồng bạc các trong các chi
phí gia đình. Sự ngờ vực cộng với sự keo kiệt của lão làm cả người ở lẫn con
cái ngày càng không thích lão. Ngay cả trong truyện hôn nhân của con cái lão
cũng tính toán để có lợi cho mình. Lão định gả con gái cho Anselme – một lão
già lắm của và gả con trai cho một bà góa lắm tiền vì họ không đòi của hồi
môn.Trong khi đó con trai lão đang yêu Marian và cũng chính là người mà lão
yêu, vô tình hai cha con trở thành tình địch của nhau. Cả hai người con đều phải
đấu tranh và tìm mọi cách bảo vệ cho tình yêu của mình. Nhờ sự trợ giúp của
Fleche – đầy tớ của Cleante, anh đã lấy được cái tráp tiền và lấy nó ra làm vật
trao đổi với cha mình về tình yêu. Harpagon phải đành lòng chấp nhận chuyện hôn
nhân của con cái và đánh đuổi cả tình yêu của mình để lấy lại tráp tiền. Trong
khi mọi người đều vui vẻ trong niềm hạnh phúc thì hạnh phúc to lớn và duy nhất
với lão là cái tráp vàng. Cho đến ngày cuối cùng , tính hám vàng vẫn vẹn nguyên
trong cái tráp tiền, không có gì có thể thay đổi được sự tham lam về mặt vật chất
, bản chất hám tiền của lão Harpagon.
II.
Cái cười trong Lão hà tiện
1. Đề tài hà tiện – đề tài gây cười
Văn học nói chung và nghệ thuật nói riêng bao
giờ cũng đi ra từ cuộc đời, cũng lớn lên từ hiện thực rồi từ đó nhờ gió đời mà
cất cánh bay cao. Xuất phát từ đó Moliere nhà hài kịch xuất sắc nước Pháp đã
khai thác triệt để những nghịch cảnh, những mặt trái của xã hội đương thời để
đưa lên sân khấu.
Đề
tài hà tiện xuất hiện khá sớm trong văn học và bản thân nó luôn luôn gắn liền với
tiếng cười, một trong các sắc thái biểu cảm của con người.
Đề
tài hà tiện là một đề tài mang tính chất hài kịch.Hà tiện mang trong nó tính chất
mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức. Hà tiện phải đi đôi và gắn bó với sự giàu
có với của cải, tức là nguyên nhân để gây ra kết quả hà tiện.Bản thân hà tiện
là một thói hư, một tật xấu, nó gắn liền với cái sai trái và tự thân cái xấu là
nguồn gốc của cái hài. Đặc biệt là khi xấu mà lại không biết là mình xấu, lại
muốn tô vẽ thành đẹp, muốn khoác vào mình một bộ áo thật sang thì cái xấu càng
trở nên lố bịch, càng trở thành đối tượng của tiếng cười. Một điều cần nhấn mạnh
nữa là thói quen hà tiện gắn chặt với bản chất của giai cấp bóc lột.Và khi dùng
tiếng cười để chế giễu châm biếm thói xấu đó, cũng chính là bóc trần bộ mặt của
giai cấp thống trị, bóc trần cái mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức có tính
hài kịch ấy.
Khác
với các đề tài văn học khác, đề tài hà tiện và con người hà tiện đều đi vào văn
học bằng con đường tiếng cười. Hà tiện là
một tật cố hữu của con người và một kẻ đồng hành cùng con người trong cuộc
hành hương lịch sử . Vì vậy mà nhân loại đã sử dụng tiếng cười ở đây để chôn vùi
tật đó của mình và “ chia tay với quá khứ một cách vui vẻ”.
Như
vậy đề tài hà tiện là một đề tài được khai thác từ lâu trong các nền văn học và
là một đề tài mang tính chất hài kịch.Nói cách khác, hà tiện là đề tài muôn thuở
tạo ra tiếng cười châm biếm khi nhẹ nhàng khi sôi nổi, có khi cười ra nước mắt.Đề
tài hà tiện đi vào nghệ thuật hài kịch không phải là ngẫu nhiên , không phải do
tình cờ mà là tất yếu, do bản chất nó chứa đựng yếu tố hài hước, chứa đựng tính
chất đáng cười, nó đi liền với tiếng cười. Tiếng cười là người đỡ đầu cho nó đi
vào văn học và tồn tại trong văn học với bao thử thách của thời gian.
2Lão hà tiện – Một tiếng cười
nhiều cung bậc
Chúng
ta biết rằng tiếng cười là một trong những yếu tố không thể vắng mặt trong những
vở Hài kịch.Cái hài thuộc về khách thể thẩm mĩ còn cái cười thuộc về chủ thể thẩm
mĩ. Tiếng cười trong cái hài là một loại vũ khí, phương tiện để phê phán mặt
trái của cuộc sống để phủ định tất cả những gì xấu xa, giả dối, lỗi thời, đó là
hình thức phê phán đặc biệt và khẳng định cái mới, cái tốt đẹp. Cái cười nảy
sinh khi cái tư tiện làm ra vẻ vĩ đại, cái ngu ngốc tự làm ra vẻ thông thái,
cái trì trệ ngưng đọng tự làm ra vẻ tràn đầy sức sống và phát triển. cái cười
đánh gục sự trống rỗng bên trong vạu hèn mạt của những kẻ nuôi ảo vọng. Nói
cách khác cái cười là phản ứng cảm xúc tcura con người trong ý thức thẩm mĩ của
nó khi nhận các hiện tượng thực tại mang các xung đột hài kịch. Như vậy cái cười
trong cái hài là cái cười đặc biệt nhằm vào đối tượng cụ thể, là cái cười có mục
đích và ý nghĩa xã hội sâu sắc.Còn cái hài là giá trị khách quan của một hiện
tượng xã hội, là cái cười cao cái cười có ý nghĩa và giá trị xã hội.Phù hợp với những phẩm chất đa dạng của hiện thực
là các sắc thái khác nhau của tiếng cười.
Do đó, cái hài và cái cười được sử dụng trong văn học nghệ thuật cũng có
nhiều biến thể khác nhau. Đối với người
nghệ sĩ hài kịch, việc xác định đúng đắn mức độ của tiếng cười đặt đúng sắc
thái của tiếng cười cho phù hợp với bản chất của mỗi hiện tượng là điều quan trọng.
Là một nghệ sĩ hài kịch vĩ đại Molière đã tạo ra một tiếng cười nhiều cung bậc
mang đậm ý nghĩa xã hội. Molière đã xây dựng trong tác phẩm của mình một tiếng
cười bất hủ mang ý nghĩa giáo dục tích cực và có giá trị chiến đấu cao.Lão hà tiện một vở hài kịch đặc sắc và
tiêu biểu xây dựng được một nhân vật hà tiện điển hình.Bên cạnh đó tiếng cười
mà Molière xây dựng được trong vở hài kịch này cũng đa dạng và thể hiện được
tài năng bậc thầy của ông.Từ cái cười dễ dãi ồn ào, cái cười mang đậm tính chất
hề kịch dân gian cho tới tiếng cười chua chát đượm màu bi đát, tất cả đều có mặt
khiến vở kịch trần ngập tiếng cười.Người xem bước vào thế sân khấu để xem lịch
của ông cũng đồng nghĩa với việc bước vào thế giới của tiếng cười nhiều cung bậc
mà ông tạo ra.
2.1 Tiếng cười phác xơ
Tiếng cười phác xơ hay tiếng cười hề
kịch là sắc thái cười đầu tiên mà chúng ta bắt gặp ở hề kịch Molière. Tiếng cười
phác xơ chiếm một vị trí quan trọng trong các vở kịch của Molière nối chung và
trong vở kịch Lão hà tiện nói riêng.
“Tiếng cười phác xơ toát lên từ những cảnh đấm đá nhau trên sân khấu, từ sự nhầm
lẫn râu ông nọ chắp cầm bà kia, từ những cử chỉ hành động ngớ ngẩn, máy móc, từ
những từ đồng nghĩa, từ ngữ lửng lơ lắm nghĩa, từ những bộ mặt ngây ngô, đần độn,
từ những mặt nạ đủ kiểu, đủ màu…” Tiếng cười này đem lại cho khán giả một cái
cười ồn ào. Náo nhiệt; Nó mang tính chất giải trí, mua vui, làm giảm trạng thái
thần kinh căng thẳng qua những điệu bộ đơn giản, máy móc dễ bắt chước. Tuy
nhiên nó không chỉ đem lại tiếng cười mà nó còn chứa một nội dung tư tưởng, những vấn đề có ý nghĩa xã hội và giá trị thẩm
mĩ xâu xa. Trong vở kịch Lão hà tiện đã
sử dụng đặc biệt thành công tiếng cười phác xơ này để khắc họa tính cách hà tiện
của lão harapagon.Theo bảng thông kê của Giáo sư Lê Nguyên Cẩn trong tác gia và tác phẩm nước ngoài dung
trong nhà trường Molière tiếng cười hề kịch xuất hiện rất nhiều lần trong vở
kịch Lão hà tiện.Cụ thể nó xuất hiện
trong lớp 3, 5 trong hồi một, lớp 1,2,5 trong hồi hai, lớp 1, 2, 3 ,5 7 trong hồi
3, lớp 4,5,6,7 trong hồi 4…như vậy không chỉ xuất hiện nhiều lần mà mật độ xuất
hiện ngày càng dồn dập, tính chất ngày càng rõ nét và kịch tính. Nó cuốn hút
người xem tạo ra một tiếng cười ồn ào từ đầu đến cuối.bên cạnh đó tiếng cười
phác xơ còn được sử dụng xen lẫn hài hòa với các tiếng cười khác tạo nân nhịp
điệu trầm bổng, tạo nên tính cung bậc. Điều đó ngoài việc đem lại cho người xem
những ấn tượng sắc nét về tính cách của một con người về một nhân vật điển hình
– Harpagon. Tiếng cười phác xơ của ông gắn liền với tính cách hà tiện của lão. Ở
hồi 1 lóp 3 sân khấu nhộn nhịp hẳn lên khi Harpagon khám xét bàn tay thứ 3, thư
4 của anh đầy tớ la Flèche.
ARPARAGÔNG: - Thong thả. Mày có cuỗm cái gì của tao không đấy?
LA FLET: - Tôi lại cuỗm được cái gì của cụ?
ARPARAGÔNG: - Lại đây, xem đã. Chìa cả hai tay ra tao xem.
LA FLET: - Đây.
ARPARAGÔNG: - Còn hai tay kia?
LA FLET: - Hai tay kia?
ARPARAGÔNG: - Phải.
LA FLET: - Thì đây (1)
ARPARAGÔNG: (Chỉ vào quần cộc (2) của LA FLET) - Mày có nhét cái gì vào trong này không.
Khi Harpagon đòi khám xét hai tay kia thì người đầy tớ đã phải làm điệu
bộ bắt hai tay ra đằng sau rồi lại chìa ra coi như là hai tay mới thì lão ta
mới thỏa mãn. Tiếng cười hề kịch vạch ra ở đây vạch cho chúng ta thấy một trong
những tính hà tiện của lão là hay nghi ngờ, luôn luôn ngờ vực lo sợ người khác
sẽ cuỗm mất món tài sản kếch sù của mình. Lão luôn lo sợ người khác sẽ đến nhà mình, dòm ngó nhà mình
cho nên lão khám quần, đòi khám cả bàn tay thứ 3, thứ 4 nữa. Lão sợ cả những chiếc quần ống rộng vì theo lão quần ống
roojg là để chứa đồ ăn cắp, lão ngờ
vực tất cả. Như vậy ngay từ đầu tính cách hà tiện của lão được khắc họa bằng
nét đa nghi.
Tính chất hề kịch dân gian còn được thể hiện
trong lớp 5 hồi 1 với màn kịch không của
hồi môn nổi tiếng. Môlière đã biến Harpagon thành một cái máy nhắc đi nhắc
lại không chán cái điệp khúc yêu quý của cuộc đời lão, làm lão sung sướng và
hạnh phúc :Không của hồi môn. Mặc cho
anh quản gia ra sức trổ tài biện thuyết cho việc yêu đương phải đúng theo quy
luật tình cảm, rằng mọi sựu ép uổng sẽ gây ra môt hậu quả khôn lường,… thì lão
vẫn chỉ có một điệp khúc để trả lời cho tất cả : Không của hồi môn. Đây là tiếng cười phác xơ lại một lần nữa khắc
họa tính cách hà tiện của Harapagon : tâm trạng tiếc tiền, bất chấp mọi lẽ
phải, bất chấp tiếng nói của lương tri. Để giữ được tài sản kếch sù của mình
lão sẵn sàng hi sinh quyền lợi, hạnh phúc
của con cái mình. Đối với con gái lão tình yêu của cô cùng hạnh phúc của
con ông ta không quan trọng bằng việc có người nhận lấy cô mà không đòi của hồi
môn, mà lão không phải bỏ tiền ra. Đối với con trai việc hạnh phúc trăm năm
cũng được lão nhìn nhận như vậy. Đó là “một
bà goá giàu có của cải như nước mà bà ta không cần gì ngoài mà người ta mach
với cha sáng nay. Ngoài ra tính hề kịch còn được thể hiện vô cùng đặc sắc ở
màn Harpagon mất của mà chúng tôi sẽ làm rõ ở phần sau.
Tiếng cười phác xơ kết hợp với các động tác biểu
diễn trên sân khấu đã càng làm rõ nét tính cách của nhân vật tạo cho hình tượng
mang tính chất biểu hiện sinh động hơn là một sự minh họa trừu tượng, cứng
nhắc, khô khan.Nó luôn luôn gắn với tính cách của nhân vật chính và người xem
cũng rút ra được bài học lí thú, bổ ích về nhân sinh quan, về lẽ sống.Điều đó
chứng tỏ tiếng cười phác xơ của Molière có tính nhân đạo cao cả, có ý nghĩa
giáo dục thẩm mĩ chứ không phải là một phương tiện gây cười thuần túy vô
bổ.Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt của hề kịch Môlière với các loại hề
kịch khác.Ở Môlière tiếng cười hề kịch còn có chức năng nữa là làm giảm tính
chất căng thẳng trên sân khấu, nó dung hòa những lớp mang sắc thái bi thương,
kéo tiếng cười trở lại trở lại địa hạt của nó mà không để rơi vào bi kịch.Ví
như ở hồi 4 lớp 4, tiếng cười hề kịch toát lên làm cho cuộc cãi vã tranh chấp
người yêu của hai cha con Harpagon – Cleante bớt đi chút ít tính bi kịch của
nó. Người xem mặc dầu cũng ngậm ngùi về cảnh tranh chấp tang thương ấy nhưng
cũng phải bật cười trước sự lầm tưởng của hai cha con và sự thất vọng của bác
Jacques vì đã lầm tưởng rằng lão sẽ thưởng tiền cho công trạng dàn hòa của bác.
Qua đó chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa xã hội của tiếng cười này.Kết hợp với sắc
thái khác, Môlière đã dung tiếng cười hề kịch để tống tiễn xuống mồ những tệ
nạn xã hội như tệ nạn phê phán thói ích kỉ, bần tiện, keo bật của giai cấp tư
sản mà điển hình là lão tư sản giàu sụ Harpagon. Việc vận dụng và sử dụng tiếng
cười phác xơ sẽ giúp cho xã hội trong sạch hơn, bản thân nó sẽ là một vũ khí có
lợi cho việc giáo dục con người và đào tạo xây dựng con người mới.
2.2 Tiếng cười khôi
hài
Gần gũi với tiếng cười phác xơ là tiếng cười khôi hài. Khôi hài là vận
dụng sự phê phán đặc biệt bằng cảm xúc “Nhằm khẳng định đối tượng từ trong bản
chất của nó”.Bản thân cái cười khôi hài mang tính nhân đạo sâu sắc, nó đặt cơ
sở vào niềm tin ở bản chất con người, nó hướng con người đến cái tốt đẹp.Cái
cười khôi hài không nhằm tiêu diệt đối tượng của tiếng cười mà nhằm hoàn thiện
nó, loại trừ những khuyết điểm còn tồn tại trong nó. Sắc thái cười này chủ yếu
được vận dụng vào hiện tượng xã hội tích cực, tiến bộ về chất lượng nói chung,
nhưng còn mang một số khuyết điểm và tàn tích cũ, một số mặt lỗi thời. Nhiệm vụ
của tiếng cười khôi hài là tống vào quá khứ các mặt đã lỗi thời của hiện tượng,
loại bỏ các khuyết điểm của đối tượng, gột sạch những gì xa lạ với bản chất tốt
đẹp của nó để nhằm tạo điều kiện cho đối tượng bộc lộ đầy đủ hơn tất cả những
gì có giá trị xã hội – thẩm mĩ trong nó.
Có thể nói tiếng cười khôi hài xuất hiện trong
vở kịch Lão hà tiện không nhiều lắm. Theo kết quả thống kê của Giáo sư Lê Nguyên Cẩn trong tác gia và tác phẩm nước ngoài dung
trong nhà trường Molière trong vở kịch tiếng cười khôi hài chỉ xuất hiện
năm lần, ít hơn so với các loại tiếng cười khác. Trong lớp 2 hồi một tiếng cười
khôi hài bật ra trong cảnh than thở giữa Valere và Elise, bật ra những lời bộc
bạch tình cảm, chân thật mà vụng về của Clèante khi nói với em gái Elise về cô
gái Mariane mà anh yêu dấu. Và cả cuộc trò chuyện tình tứ, thề nguyền của Elise
và Vale ở hồi 1lớp 1. Ở đây các cặp tình nhân vẫn yêu nhau, thủy chung thề nguyền
với nhau nhưng các mối tình đó đang gặp phải một sự cản trở chung đó là tính
keo kiệt của lão Harpagon, một thói hà tiện quá đang, o ép con cái đến đủ đường,
bắt chúng phải phụng sự và chịu đựng mọi thứ khốn khổ. Thói hà tiện của lão là
nguyên nhân cản trở những tình yêu chân chính đồng thời cũng là nguyên nhân của
hàng loạt xung đột, mâu thuẫn, rối loạn. Vì vậy
Tiếng cười khôi hài trong vở kịch của Molière
cũng mang những màu sắc nhân đạo, nó lên tiếng ủng hộ quyền lợi yêu đương của
các cặp tình nhân. Cho thấy Molière rất trân trọng tình yêu của tuổi trẻ và ca
ngợi khẳng định nó.Hơn thế nữa tiếng cười khôi hài tiếp thêm sức mạnh để chàng
Valère lí giải các câu hỏi của ông già Enselme một cách đầy tự tin và để cuối
cùng đưa đến một cuộc nhận mặt đầy vui vẻ và hạnh phúc. Tính chất vui vẻ ở
tiếng cười khôi hài mà Molière sử
dụng trong các vở kịch của mình, đặc biệt là trong vở kịch Lão hà tiện ít hơn.Bản thân tiếng cười này cũng mang tính chất
khẳng định cái mới, khẳng định những nhân vật lí tưởng tiên tiến nhưng nó
nghiêng dần sang sắc thai cao hơn là mỉa mai, bởi vì vậy tiếng cười khôi hài
của ông còn làm nhiệm vụ khắc hoa tính cách nhân vật Harapagon nữa. Tiếng cười
khôi hài trở thành phương tiện để ông thực hiện chủ đích của mình là tố cáo sự
bần tiện, keo kiệt của giai cấp tư sản với đại diện điển hình của nó là lão
Harpagon -
một thói hà tiện quá đáng. Lão o ép con
cái đến đủ đường, bắt chúng phải phụng sự và chịu đựng mọi thứ khốn khổ. Thói
hà tiện của lão là nguyên nhân cản trở những tình yêu chân chính đồng thời cũng
là nguyên nhân của hàng loạt xung đột, mâu thuẫn, rối loạn.Qua đó tác giả muốn
khan giả nhận thức rẳng phải loại trừ cái xấu xa, bần tiện đó hướng mình đến một
cái tốt đẹp hơn vì cuộc đời có cho mới có nhận, có chia sẻ mới có đồng cảm.Đừng
như lão hà tiện cả đời không biết đến từ cho
mà chỉ biết đến từ mượn.
“ Tiếng cười khôi hài là kết quả của việc tác
giả ngắm nghí nhân vật của mình, sức sống tràn trề và sự thông minh hóm hỉnh
của họ” nhận xét đó cũng phù hợp ở Molière , tuy nhiên thì ông ngắm nghía nhân
vật chính, tính cách của nhân vật chính của mình nhiều hơn và ông phê phán ,
phủ định những thói xấu, những kẻ khả ố.
2.3 Tiếng cười mỉa mai
Tiếng cười mỉa mai có tác dụng phanh phui mâu
thuẫn của đối tượng, vạch ra mâu thuẫn trong đối tượng, trong các sự vật và lên
đánh giá bản thân đối tượng ấy.Tiếng cười mỉa mai không chỉ vạch ra mâu thuẫn
của sự vật mà còn tiến lên một bước để đánh giá sự vật “Sự đánh giá này thể
hiện ở sự khinh bỉ, sự chê bai một cách sâu cay, của kẻ được ở vào cái thế mỉa
mai kẻ khác”. Tiếng cười mỉa mai còn xảy ra “Ở nơi mà sự chê bai được ngụy
trang lời khen ngợi” Ở nơi mà “Sự phi lí xuất hiện dưới mặt nan nghiêm túc, cố
tạo ra vẻ sâu sắc, điều đó tạo hiệu qủa hài hước”. Bản thân tiếng cười mỉa mai
có giá trị phê phán cao, có hiệu quả chiến đấu lớn.
Trong tác phẩm Lão hà tiện ,tiếng
cười mỉa mai xuất hiện đến 13 lần và được sử dụng đều đặn bắt đầu từ hồi II.
Cùng với những tiếng cười khác tiếng cười mỉa mai cũng được dùng để khắc họa và
minh định tính cách nhân vật. Ở lớp 5 hồi II của vở Lão hà tiện là một lớp kịch
tiêu biểu của loại tiếng cười mỉa mai.Đây là cảnh mụ mối gặp lão hà tiện
Harpagon để thông báo kết quả công việc mối lái của mình và nuôi hy vọng sẽ
được lão thưởng cho một món tiền nào đó, khả dĩ sẽ giúp mụ trong vụ kiện mà mụ
mắc phải. Vừa gặp, mụ đã vồn vã, đon đả, khen lão “Phương phi đáo để” và trẻ
hơn các chàng trai “hai mươi lăm tuổi” mặc dù lão ta đã chẵng sáu mươi. Mụ xem
vân tay, xem dáng đi, khen lão sống lâu tới “một tram hai mươi tuổi” để chỉ mà
“chôn cất con cái lão”. Mụ lại ca tụng cô gái Mariane chỉ yêu quay các ông già
và ao ước phải cưới một tấm chồng già nu mới thỏa lòng; mụ lại lên tiếng khen
ngợi đức tính điềm đạm, tằn tiện trong ăn uống, chi tiêu khả dĩ sẽ tiết kiệm
được hàng năm “mười hai nghìn niên kim”. Chưa đủ mụ còn khen nức nở lão già :
“cái chứng ho cơn thế mà ăn với ông đấy, và ông ho trông lại càng xinh”…Đến đay
Harapagon thực sự sung sướng , vui vẻ, thỏa đáng nhưng khi nghe thấy mụ mối nói
“Có chút việc muốn xin ông, tôi có một vụ kiện sắp thua đến nơi vì thiếu ít
tiền…” Đến đay tình yêu nghoảnh mặt với tiền tài, Lão Harpagon lấy vẻ nghiêm
nghị, nghiêm mặt lại làm cho mụ mới vừa nói chuyện tiền lại phải vôi quanh sang
nịnh về chuyện tình và từ chối bằng cách “đi viết mấy bức thư cần gấp”, để “ra
lệnh chuẩn bị xe ngựa sẵn sàng” và “để
phải lo cho ăn sớm để các người khỏi phải chờ đến phát ốm”. Và sau đó
lão chuồn thẳng, để lại cho mụ mối một nỗi thất vọng bao trùm : “thằng ch bủn
xỉn này, tấn công thế này nó cũng vẫn trơ trơ”. Tiếng cười mỉa mai bật ra ở đây
từ sự tán tỉnh gượng gạo, trơ trẽn của mụ mối đối lập với cái vẻ nghiêm nghị
khi có người khác sờ đến túi tiền của mình của lão Harpagon. Bản chất hà tiện
còn thể hiện ở chỗ ngoài việc lão không muốn mất không một đồng xu nào cho
người mối lái, người kết tóc xe tơ mà còn phải đòi bà mẹ cô gái cố gắng tìm cái
gì đó “sờ mó được” để cho con gái làm của hồi môn. Tính cách hà tiện được nâng
them một bước, được thể hiện rõ nét hơn và đậm dần thành một tính cách sinh
động cụ thể.
Như vậy tiếng cười mỉa mai gắn chặt với tính
cách của nhân vật chính, làm đậm nét nhân vật chính rồi qua đó người đọc có thể
rút ra cho mình một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Trong cuộc sống trong thực tiễn,
tiếng cười mỉa mai được sủa dụng khá rộng rãi, bởi vì nó kgoong chỉ mỉa mai
người khác, các hiện tượng xấu xa mà
nhều khi tự mỉa mai mình nữa.
2.4
Tiếng cười châm biếm
Ở
một mức đọ cao hơn và gay gắt hơn tiếng cười mỉa mai là tiếng cười châm biếm.Châm
biếm vận dụng sự phê phán đặc biệt bằng cảm xúc nhằm phủ nhận đối tượng từ
trong bản chất của nó.Đây là loại tiếng cười mang khả năng công phá mãnh liệt,
có khả năng “tống tiễn xuống mồ” các
tấn trò đời của nhân loại.Bản thân nó là sự cười nhạo có tính chất phê phán gay
gắt những hiện tượng được mô tả, sự cười nhạo này thể hiện trong nguyên tắc lựa
chọn và khái quát hoá chất liệu.Lối châm biếm trong sự mô tả cuộc sống có thể
chiếm ưu thế trong tác phẩm và khi ấy nó được gọi là tác phẩm châm biếm. Do đó,
trong một chừng mực nhất định chúng ta có thể kết luận rằng “hài kịch của Môlie là hài kịch châm biếm”.
Môlie đã vận dụng tiếng cười châm biếm vào trong các tác phẩm của mình, đặc biệt
là trong vở hài kịch tính cách Lão hà tiện.
Đối tượng của tiếng cười châm biếm của ông là các hiện tượng xã hội xấu xa, là
những hành vi cử chỉ lố bịch kém cỏi về nhân cách, là những kẻ đạo đức giả bịp
bợm, là những tên tư sản hà tiện vắt cổ chày ra nước. Bằng tiếng cười châm biếm
Môlie đã chôn vùi giai cấp tư sản, vạch trần và tố cáo quyết liệt bản chất tàn
ác ích kỉ của chúng qua vở kịch Lão hà tiện.
Tiếng
cười châm biếm này gắn chặt với tính cách của các nhân vật chính, làm cho tính
cách cười nhạo càng mạnh mẽ và sâu sắc hơn. Cũng như các cung bậc khác của tiếng
cười khác, tiếng cười châm biếm gắn với giai đoạn phát triển cao nhất của tính
cách nhân vật, ở thời điểm mà các nét tạo ra tính cách được bộc lộ một cách đầy
đủ nhất hoặc ở thời điểm mà một nét nào đó của tính cách chủ đạo phát triển đầy
đủ nhất. Trong vở Lão hà tiện, tiếng
cười châm biếm ta bắt gặp rải rác ở nhiều hồi và nhiều lớp kịch , tuỳ theo mức
độ khai triển của các nét chủ yếu tạo thành tính cách nhân vật.
Trong
vở kịch Lão hà tiện, tiếng cười châm
biếm cũng là một sắc thái cười nhạo tiêu biểu, xuất hiện trong nhiều hồi, nhiều
lớp, khắc hoạ sâu sắc tính cách hà tiện của nhân vật Acpagông và biểu thị thái
đọ phê phán gay gắt của Môlie đối với thói xấu này. Môlie đã tô đậm nét tính
cách hà tiện của lão Acpagông. Từ chỗ “keo
kiệt quá đáng”, “bủn xỉn quá quắt”,
tác giả đã minh hoạ cụ thể bẳng hành động của chính bản thân nhân vật Acpagông
: đòi khám xét bàn tay thứ ba, thứ tư; đòi mọi người phải chấp nhận quan điểm “không của hồi môn” của ông ta. Từ cái cảnh
bày cho đầy tớ lấy mũ che vết dầu loang trên quần, biết cách quay người để che
chiếc quần thủng, cho đến việc lão bịt mồm bác Giắc khi bác trình bày các thực
đơn lão còn đòi khắc chữ vàng câu châm ngôn “ăn để sống chứ không phải sống để ăn” trong khi đó ra lệnh phải độn
thật nhiều hạt dẻ vào thịt, phải dọn các món ăn làm sao cho người ăn chưa ăn đã
thấy ngán, rượu thì phải pha thêm nước lã và lão kết luận “tám người ăn đủ thì mười người ăn cũng đủ”. Lão tiếc đứt ruột đứt
gan khi chiếc nhẫn kim cương bị chuyển từ tay lão sang tay cô gái Marian, đến
lúc điên cuồng đã muốn “treo cổ toàn nhân
loại” vì lão bị mất cắp tráp bạc. Và cuối cùng khi tất cả mọi chuyện tưởng
chừng đã ổn thoả thì lão còn đòi không phải mất tiền cưới xin cho con, phí tổn
cho các đám cưới và còn đòi may cho lão một bộ lễ phục, còn tiền bút giấy thì
lão đòi trả bằng chính bác Giắc thật thà,… Như vậy, tính cách hà tiện được phát
triển từ mức độ thấp đến mức độ cao từ các nét khác nhau nhưng đều tập trung tạo
thành một “hình tượng đơn tuyến” với tính cách hà tiện điển hình.
Chúng
ta có thể dễ dàng nhận thấy rõ, tiếng cười châm biếm xuất hiện trong tác phẩm Lão hà tiện với một mức độ khá đậm đặc,
chiếm một tỉ lệ khá lớn trong các hồi và xuất hiện ngay từ hồi đầu tiên.Sự xuất
hiện của tiếng cười châm biếm với mức độ đậm đặc như vậy khiến cho sự cười nhạo
trở nên gay gắt và thái độ phê phán phủ định trở nên quyết liệt hơn.Môlie ở đây
đã không hề nhân nhượng trước các thế lực tượng trưng cho cái ác mà hiện thân
là thói ích kỉ tàn nhẫn, thói keo kiệt bủn xỉn ti tiện ở trong lòng một giai cấp
đang mang sức sống của thời đại. Hài kịch của Môlie nói chung và vở Lão hà tiện
nói riêng đã phát hiện ra và nhận thức đầy đủ hơn về giá trị thẫm mĩ của nó mà
nguyên nhân cơ bản tạo nên giá trị thẫm mĩ đó lại chính là các cung bậc của tiếng
cười mà Môlie sử dụng ở đây. Ngoài việc sắp xếp các hồi, các lớp cho phù hợp với
các cung bậc của tiếng cười, phù hợp với mức độ cần phê phán, việc chọn hình tượng
Acpagông cũng có ý nghĩa châm biếm. Là một tư sản giàu sụ có cả đầy tớ, gia
nhân, có ngựa, có xe nhưng lại là một lão chủ ti tiện, ngoài việc bóp cổ, bóp hầu
con nợ, lão còn để cho dầy tớ gia nhân ăn túng mặc thiếu. Lão cho in một thứ lịch
riêng trong đó tăng gấp đôi số ngày ăn chay; đầy tớ thì quần áo rách rưới bẩn
thỉu; ban ngay phát thóc cho ngựa thì ban đêm lão lẻn vào ăn trộm nên bị đầy tớ
nện cho một trận nên thân, v.v… Vì thế mà lão trở thành “một kẻ ít có tính người nhất”. Là cha của hai đứa con đã đến tuổi dựng
vợ gả chồng, lão bắt chúng sống khổ sống sở, ăn túng mặc thiếu, vì vậy mà cha
thì keo kiệt còn con thì trở thành kẻ phá gia chi tử và mong “cha chết trong vòng tám tháng nữa”, và
không chịu nhường cha một li trong cuộc đối đầu tình yêu tay ba Acpagông –
Marian – Clêăng. Lão cũng “yêu với đương”.
Trong khi bắt con gái phải lấy một lão già vì không mất của hồi môn và ép con
trai phải lấy một bà goá ngoài năm mươi thì lão lại đi yêu một cô gái trẻ. Oái
ăm thay người con gái đó lại chính là người yêu của con trai lão. Những âm mưu
và tính toán ích kỉ đó đã khiến cho gia đình lão tan nát, chia lìa, gây nên một
sự cười nhạo quyết liệt với một thái độ căm hớn. Bằng tiếng cười châm biếm,
Môlie đã phủ nhận nhân vật Acpagông từ trong bản chất của nó.Đó là một sự phủ
nhận quyết liệt, không khoan nhượng, cũng qua tiếng cười đó Môlie đã vạch trần
bản chất đích thực của giai cấp tư sản trong buổi đầu sơ sinh của nó “đã đầy bùn và máu ở các lỗ chân”.
Ở
màn độc thoại Acpagông mất của , tiếng cười châm biếm bật ra ở đây từ cái kết
luận của Acpagông ngờ vực tất cả mọi người kể cả bọn tai to mặt lớn, cả các bậc
phú quý trong triều đình nữa. Tiếng cười bật ra ở đây đã chứa đựng một khả năng
phê phán to lớn, nó lên tiếng phủ nhận cái xã hội phong kiến tiền tư bản đầy
các mâu thuẫn, một xã hội mà “nhìn ai
cũng thấy ngờ vực, người nào cũng như là đứa ăn trộm”. Lão đã đi đến một giải
pháp nặng nề “Tôi muốn treo cổ tất cả mọi
người và nếu tôi không tìm thấy tiền thì tôi cũng treo cổ nốt cả tôi nữa”. Ở
đây tiếng cười châm biếm đã lột trần bản chất tàn ác của Acpagông nói riêng và
của giai cấp tư sản nói chung. Ý nghĩa tối cáo xã hội của nó rất lớn vì sự tha
hoá của con người đã lên đến cực điểm.
2.5 Tiếng
cười bi kịch– tiếng cưòi đau đớn xót xa, cười ra nước mắt
Biểu
hiện sự chua chát, đau đớn xót xa là một tiếng cười bi kịch, cười ra nước mắt.đối
với một hiện tượng được đưa ra chế giễu, cười nhạo thì tiếng cười châm biếm thường
làm cho người ta cười nhiều hơn là thương hại.Khác với hài kịch, bi kịch không
gây ra tiếng cười mà biểu hiện sự xót thương hay sợ hãi của mọi người đối với
nhân vật bi kịch. Đối với hài kịch, nhân vật không rơi vào cái thảm thương mà bản
thân nó gây ra bi kịch, nói cách khác tính bi kịch trong nhân vật hài kịch thể
hiện sự bi đát của nó, nó không gây ra một sự xót thương nào, mà chỉ đem lại một
tiếng cười đầy tính bi kịch, chua chát, xót xa, đau đớn, cười ra nước mắt. Tiếng
cười bi kịch xuất hiện khi một hiện tượng hài kịch nhất định dẫn đến những hậu
quả khốc hại hiển nhiên, khi hiện tượng hài kịch đó tỏ ra rất nguy hiểm đối với
xã hội, đẩy một số người vào cảnh bất hạnh nặng nề, thậm chí vào cái chết nữa
và khiến người nghệ sĩ căm ghét nó tới cực độ, khiến niềm căm ghét của người
nghệ sĩ sục sôi thúc đẩy ông ta phải bóp chết cái cười..
Tiếng
cười đả kích, châm biếm, mĩa mai chỉ thực sự là tiếng cười giòn giã khi sức mạnh
đứng về phía lực lượng tiến bộ. Còn khi mà lực lượng mới với tính chất tiến bộ
của nó chưa lật đổ hẳn được lực lượng cũ, lực lượng lạc hậu phản động và bản
thân lực lượng cũ này không đủ sức để tiêu diệt lực lượng mới thì tiếng cười
mang tính chất chua chát, đau đớn này được hình thành từ bản thân hiện tượng
hài hước.
Tiếng
cười bi kịch, cười ra nước mắt là một sự sáng tạo lớn của Môlie đối với lịch sử
hài kịch thế giới. Tiếng cười bi kịch tố cáo gay gắt xã hội quí tộc, đã kích thẳng
tay các quan hệ tư sản vô nhân đạo. Nó xuất hiện khi mâu thuẫn kịch, xung đột kịch
gay gắt mang ý nghĩa bản chất của vở kịch. Cái cười có tính bi kịch trong hài kịch
của mô lie gắn liền với sự phát triển của tính cách nhân vật. song ở các vở hài
kịch của Môlie, sự nhanh chóng kịch tính này nhanh chóng giảm đi bởi những mâu
thuẫn được giải quyết thoả đáng khi kết thúc vở hài kịch. Do đó tiếng cười có
tính bi kịch ở hài kịch Môlie vẫn thường là một tiếng cười khoẻ khoắn. Nói cách
khác, hài kịch Môlie tiếp cận miệng hố bi kịch.Các nhân vật gây ra cái cười bi
kịch ở Môlie thường là những nhân vật bị thất vọng về mục đích riêng của mình.
Và khi mục đích ấy được soi sáng qua một qua trình đấu tranh gay gắt thì nhân vật
lại trở lại trạng thái ban đầu của nó và mọi việc đều ổn thoả.
Xuất
phát từ cái nhìn sâu sắc tiến bộ vào một xã hội chứa đựng những mâu thuẫn gay gắt,
những đụng độ quyết liệt, Môlie đã phản ánh vào trong hài kịch của mình những yếu
tố bi kịch. Cái cười của ông do đó xuất hiện sắc thái cười ra nước mắt, trong
cái cười đó, sự xót xa về những điều thương luân bại lí xảy ra trong gia đình,
những mâu thuẫn lớn có ý nghĩa xã hội và mang bản chất xã hội ấy. Tất cả các tiếng
cười bi kịch ở các tác phẩm của Môlie đều tạo cho hài kịch của Môlie một bản sắc
riêng, mang cá tính sáng tạo độc đáo. Đồng thời nó cũng góp phần tạo nên giá trị
hiện thực cho các tác phẩm của ông, khiến “Môlie
trở thành bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực Pháp”.
Cũng
như các cung bậc khác của tiếng cười, Môlie đã sử dụng nhiều lần tiếng cười bi
kịch trong vở kịch Lão hà tiện.điều
đó nói lên tính chất gay gắt của xung đột kịch cũng như mâu thuẫn giằng xé
trong thời đại ông. Với tiếng cười bi kịch, Môlie đã hoàn tất bức tranh về tính
cách hà tiện, đồng thời tái dựng nó dưới dạng một con ngáo ộp sinh động đáng sợ
với túi tiền vàng trong tay.
Tiếng
cười bi kịch xuất hiện trong vở kịch Lão
hà tiện ít hơn các tiếng cười khác, nhưng nó tạo ra một chất lượng mới cho
tác phẩm, tạo nên sức nặng cho hình tượng mà nó khắc hoạ cũng như tạo ra tính
điển hình cho tính cách nhân vật. Xem kịch khán giả không cười một cách đau đớn
khi cảnh hai cha con Acpagông – Clêăng gặp nhau trong tư thế một kẻ đi vay và một
kẻ cho vay, với lời cam đoan nổi tiếng của đứa con phá gia chi tử: “Ông bố sẽ chết trong vòng tám tháng nữa”.
Khán giả cũng không thể không đau xót trước cảnh hai cha con tranh nhau một cô
gái, ông bố giưo nắm đấm ra tuyên bố: “Tao
cho mày những lời nguyền rủa” còn thằng con hỗn láo vênh mặt trả lời “Cóc cần”. Những cảnh đó đã tạo ra ấn tượng
sâu sắc cho người xem về một xã hội trong đó đồng tiền tác oai tác quái, phá vỡ
mối quan hệ tốt đẹp và cao cả nhất giữa con người với nhau: tình phụ tử. Ở đây,
nhân cách bị đè bẹp, lương tâm bị chà đạp, còn mọi lẽ phải, mọi lương tri, lí
trí đều bị coi khinh.Xem kịch, nguời xem đều cảm thấy chua xót “khiến cho người ta vừa cười xong đã phỏi
khóc ngay”.Các tình huống bi kịch đó đã tạo dựng một bức chân dung, không
phải chỉ cha con Acpagông mà của cả giai cấp tư sản, đã chỉ ra được bản chất
đích thực của chính giai cấp ấy. Người xem có lẽ chỉ trừ bọn vô đạo đức là tán
thưởng hành động của đứa con hỗn láo còn tuyệt đại đa số đều lên án và khôn thể
nào “yêu thích đứa con hỗn láo” đó được.
Bên cạnh việc người ta cười lão Acpagông, người ta còn cười nhạo cả thằng con
lão. Cả hai hình tượng này nằm từ trong thế tương phản, đối đầu với nhau nhưng
lại bổ sung và hoàn thiện tính cách cho nhau để cuối cùng đạt tới mức khắc hoạ
sinh động bản chất của một giai cấp. Bản thân lão Acpagông với tính hà tiện keo
kiệt, bủn xỉn, ích kỉ, tàn nhẫn sẽ có và chỉ có một đứa con mang tính cách của
lão thôi. Cha nào con nấy. Người cha tán tận lương tâm, hi sinh hạnh phúc con
cái vì mấy đồng vàng, bất chấp lương tri lẽ phải, rắp tâm chiếm đoạt người yêu
của con, thì ngược lại đứa con làm gì mà chẳng mong “cha chết trong vòng tám tháng nữa”, làm gì mà chẳng ăn cắp tráp bạc
của cha và thậm chí sẵn sàng hi sinh cái mạng của ông bố nữa. Hai cha con trên
hai tuyến hành động khác nhau nhưng đều có mục đích chung là thoả mãn dục vọng
và sở thích cá nhân. Người xem không thể không nhận ra điều đó. Và do vậy họ sẽ
lên tiếng phê phán, tố cáo xã hội đảo điên đã sinh ra những con người tang tận
lương tâm như vậy, cũng như nhận thức được sâu sắc bản chất tàn ác của giai cấp
tư sản, một giai cấp mà vì túi tiền của nó “nó
sẵn sàng treo cổ toàn nhân loại”. Giá trị của tiếng cười bi kịch chính là ở
chỗ đó, nó sẽ không tạo ra cái cười thoải mái mà nó tạo ra sức nặng trong chiều
sâu nhận thức, để qua đó mỗi một người tự rút ra cho mình một bài học mang ý
nghĩa nhân sinh chân chính, chứ không phải là một bài học về “các thói hư tật xấu”.
Tiếng
cười bi kịch trong Lão hà tiện gắn chặt
với đồng tiền và tính cách hà tiện, keo kiệt đến tàn nhẫn của lão Acpagông.Tiếng
cười bi kịch ở đây xuất hiện nhiều lần bởi vấn đề xã hội rộng lớn mà tác phẩm đề
cập. Đó là sự tha hoá của con người trước đồng tiền. Đồng tiền đã phá hoại tất
cả mọi tình cảm cao quý nhất của con người, biến con người thành những con thú
dữ, nhẫn tâm, ích kỉ cực độ, không biết tới ai ngoài bản thân và quyền lợi của
mình ra.Đồng tiền đã biến Acpagông thành một kẻ chỉ biết duy nhất đến bản thân
lão.Vấn đề đồng tiền đã mở toang bức tranh của xã hội phong kiến tư sản chủ
nghĩa và khi viết về vấn đề này Môlie đã sử dụng tiếng cười bi kịch như một sức
mạnh tố cáo đặc biệt, có giá trị chiến đấu cao và hiệu quả lớn.
Tính
chất bi kịch trong hài kịch của Môlie bao hàm một ý nghĩa xã hội – thẫm mĩ to lớn.nó
chứa đựng thái độ phản ứng quyết liệt của tác giả về một xã hội mang nhiều mâu
thuẫn gay gắt kịch liệt. Nhưng Môlie tin tưởng sâu sắc vào bản chất tốt đẹp của
con người, nắm được lương tri và lí trí của thời đại, vì vậy ông không hề gục
ngã trước các thế lực đen tối. cho nên các vở kịch của ông đã nhiều lần tiếp cận
miệng hố bi kịch nhưng tiếng cười mà ông mang lại cho chúng ta không bao giờ trở
thành bi kịch. Các thời đại kế tiếp nhau cười thoải mái sau khi xem kịch của
ông và thầm đưa tay gạt đi những giọt nước mắt truớc những cảnh bi đát.
Lão hà tiện
là một tiếng cười nhiều cung bậc, không chỉ dừng lại ở việc xây dựng tiếng cười
trong một vở kịch mà tiếng cười ấy còn được Molie thể hiện, tạo dựng ngay trong
từng lớp kịch.Đây cũng chính là lý do chúng tôi đặt tên cho phần này là “n trong 1”Màn độc thoại “Harpagon mất của” là một ví dụ tiêu biểu
và điển hình khi xét về phương diện này.
Khi
nói màn độc thoại “Harpagon mất của”
là một tiếng cười nhiều cung bậc được chứng minh ở nhiều phương diện. Đầu tiên
là ở phương diện kết cấu, màn độc thoại “Harpagon mất của” có thể coi là một
màn kịch nhỏ,hoàn chỉnh như một vở kịch. Nó có mở đầu, có phát triển và kết
thúc theo đúng tiến trình, diễn biến của hành động kịch. Diễn biến của hành động
kịch ở đây phát triển theo chiều tang của kịch tính, đó là tâm trạng Harpagon
khi bị mất cái “tráp bạc yêu quý”. Từ
chỗ hoảng hốt, mất hết bình tĩnh đến sự đau đớn, sự xót xa lan tỏa khắp đường
gân thớ thịt, đến sự điên cuồng man rợ đòi “treo
cổ toàn nhân loại” và nếu không tìm thấy trap bạc thì cũng “treo cổ lên nốt” nữa. Diễn biến của kịch
tính xảy ra trong phạm vi ba không gian khác nhau: không gian sân khấu, không
gian tâm lý và không gian toàn cảnh nhà hát. Từ ba không gian đó bật ra ba sắc
thái cười khác nhau, phù hợp với tính cách nhân vật và tiếng cười trong ba
không gian cũng đi theo chiều phát triển đi lên, từ hề kịch đến mỉa mai châm biếm,
tạo ra tính chất cung bậc độc đáo của màn kịch này. Xét về phương diện nhân vật,
màn kịch này tuy là độc thoại nhưng lại có nhiều nhân vật cùng tham gia vào hoạt
động của nhân vật chính: nhân vật đồng tiền “bạn yêu quý” của Harpagon và toàn bộ các khan giả xem kịch. “Các ngài có thấy thằng kẻ trộm của tôi
không?”Độc thoại ở đây là một biện pháp nghệ thuật mà Molie sử dụng vừa để
cho nhân vật tự bộc bạch tâm trạng của mình, vừa để biểu đạt và khắc họa tính
cách nhân vật. Độc thoại nhưng lại có nhiều nhân vật làm cho hành động kịch mất
tính đơn điệu và tạo ra được một không khí ồn ào, sôi nổi. Ở màn độc thoại này
vừa có chỗ “gián cách” vừa có chỗ “thu hút”.Cái độc đáo là ởn chỗ này. Nhân vật
chính là Harpagon trong không gian toàn cảnh nhà hát đã tạo được một mối liên hệ
hữu cơ với khán giả, biến khán giả thành một nhân vật kịch đặc biệt, bị cuốn
hút và tham gia vào hoạt động kịch với nhân vật chính và sau khi nghe nhân vật
nói năng, hành động thì chỉ phản ứng lại bằng hoạt động tâm lý (cười, suy
nghĩ). Nhân vật Harpagon đã tạo được sức mạnh đồng cảm, lôi cuốn người xem, các
hành vi cử chỉ của nó cũng phát huy tác dụng định hướng, lôi kéo dự tập trung
chú ý của khán giả và khan giả biến thành một nhân vật kịch mà không hay biết.
Do đó tiếng cười bật ra từ chỗ “có lẽ các
ngài cũng có phần trong món tiền ăn trộm của tôi chứ chả chơi” là một tiếng
cười châm biếmđả, có sức kích mạnh mẽ. Đối với Harpagon, đồng tiền là lẽ sống,
là lý tưởng cao nhất.Đó là “bạn yêu quý”
của lão.Đồng tiền ở đây trở thành một nhân vật vô tri vô giác nhưng lại đóng
vai trò quan trọng trong đời sống tình cảm của lão Harpagon. Mối quan hệ giữa
lão và đồng tiền tồn tại trong không gian tâm lí, tạo nên một sự giao cảm, một
sự ràng buộc, gắn bó hữu cơ với nhau. Khán giả theo dõi, đánh giá và tìm hiểu mối
quan hệ đặc biệt này, khám phá tính chất vô nghĩa của những lời điên loạn và
cũng đồng thời nhận thức được sâu sắc bản chất của nhân vật Harpagon. Tiếng cười
bật ra ở đây là tiếng cười mỉa mai, đượm màu chua chát, xót xa.
Như vậy, xét về phương diện kết cấu và
nhân vật, mà độc thoại “Harpagon mất của” là màn kịch hoàn chỉnh trong cấu
trúc, chặt chẽ, logic trong sự phát triển của kịch tính cũng như phù hợp với
tính cách nhân vật. Màn kịch đó toát ra ba sắc thái khác nhau của tiếng cười:
tiếng cười hề kịch, tiếng cười mỉa mai và tiếng cười châm biếm. Đây có thể được
xem là tài năng của Molie khi biến từng lớp kịch của mình có thể đứng độc lập một
cách vững vàng với đầy đủ các giá trị cả về nội dung truyền tải lẫn nghệ thuật
thể hiện.
III. Các biện pháp gây cười trong
vở kịch Lão hà tiện
Moliere đã để lại cho chúng ta hàng
trăm vở kịch lớn nhỏ, tạo thành một thế giới ồn ào vui vẻ của tiếng cười nhiều
cung bậc. Để tạo ra cái thế giới đầy âm sắc tiếng cười ấy, Moliere đã đề ra quy
tắc riêng biệt không lệ thuộc vào các quy định chặt chẽ của mỹ học cổ điển chủ
nghĩa. “Quy tắc của mọi quy tắc là mua vui cho khán giả”, đó là quy tắc lớn nhất
mà suốt cuộc đời sáng tác của mình Moliere tâm niệm với mục đích là “dùng tiếng
cười để sửa chữa phong hóa”. Đó là một quan điểm nghệ thuật rất tiến bộ của
Moliere.“Hài kịch là một tác phẩm phản ánh những mâu thuẫn hình thành trong xã
hội giữa những quan điểm và khái niệm mới với các hình thức đã lỗi thời của đời
sống xã hội và đời sống tinh thần đang cố gắng duy trì địa vị xã hội”.Mỗi tác
phẩm hài kịch, do tính chất của nó quy định đều phải gây tiếng cười.Điều đó buộc
người viết phải chú ý đặc biệt tới các biện pháp gây cười.Mặt khác khi nghiên cứu
tiếng cười trong các tác phẩm hài kịch cũng không được phép bỏ qua vấn đề này.
aHài
kịch Moliere là hài kịch tính cách
Một
đặc điểm hài kịch của Moliere là các hài kịch của ông đều là những hài kịch
tính cách. “Tính cách trong nghệ thuật là một phạm trù cơ bản, phức tạp và luôn
luôn phát triển, nội dung của nó thay đổi tùy theo những điều kiện lịch sử cụ
thể, tùy theo phương pháp sáng tác mà người nghệ sĩ sử dụng và trình độ thấu hiểu
bản chất con người của nghệ thuật”. Khái niệm “Tính cách” được dung hiện nay với
ba nghĩa:
-
Chỉ nhân vật
-
Chỉ nhân vật được thể hiện khá rõ nét để
lại được ở người đọc một ấn tượng tương đối rõ rang như chưa đạt đến trình độ
điển hình sâu sắc, rộng rãi
-
Chỉ những đặc điểm tâm lí tương đối ổn định
nói lên cốt cách, phẩm chất của nhân vật
“Cách
sử dụng thứ ba này hợp lí và phổ biến hơn tất cả”.Xét về các mặt khái niệm tính
cách được dùng ở Moliere tương ứng với cách sử dụng thứ ba này. Ở Moliere, tính
cách là các biểu hiện tâm lí sâu sắc và thường xuyên của bản thân nhân vật, do
đó nó trước hết là phạm trù đánh giá hành vi của con người hoạt động, bởi vì
các nét biểu hiện của tâm nhân vật sẽ thể hiện và được thể hiện qua hành vi, cử
chỉ, trong hành động của con người. Tính cách hà tiện được thể hiện rất rõ
trong “Lão hà tiện” của Moliere.
Phương pháp được Moliere dung đẻ xây dựng
tính cách là: Khai triển – hội tụ - phóng đại. Một điều cần chú ý là ông không
bao giờ rơi vào cái công thức, tính sơ lược mà nhân vật của ông bao giờ cũng
sinh động.Tính sinh động biểu hiện trong tính cách được xây dựng đã làm cho
hình tượng nghệ thuật của Moliere mất tính trừu tượng và động thời tạo ra cho
tiếng cười các sắc thái khác nhau.Nói cách khác, việc xây dựng tính cách nhân vật
ở Moliere cũng là một biện pháp gây cười hiệu quả.Trong tác phẩm “Lão hà tiện”.tính
cách hà tiện được xây dựng ở đây hàm ý keo kiệt, bủn xỉn, chứ không phải là sự
chắt bóp, tằn tiện nào đó. Ngay từ đầu tác giả dung phương pháp khai triển để
giới thiệu tính cách Harpagon. Quản gia Valer nhận xét: “ Tính hà tiện quá đáng
của ông cụ, tính khắc nghiệt của cụ trong cuộc sống với các con…”, “…kẻ thích nịnh
hót” (lớp 1 hồi I); Con cái lão ta cũng nhận xét về lão: “…chỉ vì tính hà tiện
của người cha mà anh ở tình trạng bất lực…”, “người ta có thể nào thấy cái gì
tàn nhẫn hơn tính tằn tiện khắc nghiệt đối với chúng ta, tính chi li kì lạ làm
cho chúng ta mòn mỏi?”…Tất cả những lời nhận xét đó của các nhân vật được
Harpagon minh họa bằng hành động thực tế: chửi mắng om sòm, quát tháo đầy tớ,
xua đuổi đầy tớ vì tính hay nghi ngờ của lão; ngôn ngữ từ cửa miệng của lão
cũng rất phù hợp với tính cách của lão: “quân ăn cắp”, “thổ tả đồ chết
treo”…Sang lớp 4, hồi I, tính cách hà tiện được triển khai thêm bằng nét “yêu
đương”. Cách đặt vấn đề của lão cũng quanh co, buộc hai đứa con phải nói thật hết
những nhận xét của mình về cô gái mà lão đang theo đuổi. Cái quanh co này cũng
không che dấu được tính cách hà tiện của lão. Chúng ta sẽ bật cười khi nghe lão
nói: “Có một khó khăn nho nhỏ; cha sợ, với đám này, ta sẽ không được lắm của mà
ta có thể trông chờ!” và “…thì phải gỡ gạc ở cái khác” (lớp 4, hồi I). Nét hà
tiện tiêp tục được phác họa them ở ý định của Harpagon là hỏi cho con trai một
“bà góa nào đó” và gả chồng cho con gái với một ông già được người ta “tán tụng
là lắm của”. Sự khai triển các nét tính cách hà tiện được khai triển trên các
khía cạnh khác nhau trong các hồi khác nhau. Nó làm công việc phanh phui bản chất
con người Harpagon và là điều kiện để tiếng cười xuất hiện.
Nói hội tụ không có nghĩa là tất cả các
nét khác của tính cách đều hòa nhập vào nét đặc trưng chủ yếu mà các nét này đều
được sử dụng, được phát triển theo hướng làm sáng tỏ, làm nổi bật nét chủ yếu,
tô đậm nét chủ yếu. Tính hào phóng giả tạo khi đòi khắc câu châm ngôn “Ăn để sống
chứ không phải sống để ăn” đều không nằm ngoài mục đích làm nổi bật tính hà tiện,
keo kiệt, bủn xỉn của Harpagon. Sự hội tụ này đã làm cho tính hà tiện mang màu
sắc mới khiến cho nhân vật thêm sinh động.
Moliere
không chỉ hội tụ các nét tính cách vào nét chủ yếu trung tâm mà còn phóng đại
các nét tính cách phức tạp đã được hội tụ lên nữa. Do đó mà Harpagon khám hai
bàn tay còn cho là chưa đủ mà còn đòi khám cả “những bàn tay khác”, hà tiện tới
mức không dám dùng đến chữ “cho”. Khi lão hỏi các con về cô gái Mariane và khả
năng các mặt của cô gái: hình thức, đức hạnh, khả năng quán xuyến công việc gia
đình nhưng vẫn phàn nàn vì “không được lắm của” và khi nghe bà mối Frosine tán
tỉnh, xu nịnh lão say mê đi nhưng vẫn đòi “phải đóng góp chút đỉnh”. “Phải chịu
tốn đôi tí” “bởi vì xưa nay, chẳng ai đi lấy một người con gái mà cô con gái
không mang gì về”. Nghĩa là Harpagon có say mê Mariane nhưng bản chất hà tiện của
lão vẫn đòi phải “kiếm cái gì đó sờ mó được”. Mặt khác cũng ở điểm hội tụ này các
nét khác thấm vào nét chủ yếu thành một yếu tố tổng hợp tạo ra sức mạnh biểu đạt
và khắc họa mạnh mẽ.
Việc kết hợp, vận dụng hài hòa các
khâu: khai triển – hội tụ - phóng đại thể hiện tài năng của Moliere trong việc
vận dụng các sắc thái của tiếng cười. Do đó tính cách nhân vật được ông xây dựng
trở thành một biện pháp gây cười trong vở hài kịch tính cách của ông.
bCách
giới thiệu tính cách
Việc
xây dựng tính cách gắn liền với cách giới thiệu tính cách, cách báo trước, cách
đặt vấn đề trước cho người đọc, người xem biết được tính cách sẽ được xây dựng.
Moliere có hai kiểu giới thiệu tính cách: Một là nhân vật chính tự giới thiệu
luôn tính cách của mình. Cách giới thiệu thứ hai là cách giới thiệu gián tiếp:
tính cách của nhân vật chính được giới thiệu qua nhận xét của nhân vật khác.
Cách giới thiệu gián tiếp này không có xuất hiện ngay từ đầu nhân vật chính,
còn cách giới thiệu trực tiếp thì nhân vật chính xuất hiện ngay từ lớp đầu tiên
của vở kịch.Ở vở kịch “Lão hà tiện”, Moliere đã sử dụng cách giưới thiệu gián
tiếp.Tính cách của nhân vật chính được thông báo từ đầu nhưng nhân vật chính
không xuất hiện đã có tác dụng chuẩn bị dư luận cho khán giả đồng thời ta hứng
thú chờ đợi nhân vật chính của người đọc.Ngay từ lớp 1, hồi I, Harpagon được giới
thiệu qua cửa miệng quản gia Valere là hà iện quá đáng, là khắc nghiệt, là kẻ
ưa nịnh hót. Các nét đó của tính cách hà tiện lại được nhấn mạnh một lần nữa
qua đứa con trai: tặn tiện một cách tàn nhẫn, chi li kì lạ, keo kiệt không chịu
nổi. Cách giới thiệu này ngoài việc giới thiệu tính cách chủ yếu sẽ được xây dựng
còn cung cấp các nét khác nhau của tính cách đó.Cách giưới thiệu gián tiếp này
tạo ra tiếng cười khôi hài pha chút mỉa mai ở lão hà tiện Harpagon.
Trong
“Lão hà tiện”, ngoài cách giới thiệu tính cách gián tiếp, Moliere còn dùng cả
nhân vật chính bộc lộ tính cách của mình.Nhân vật chính làm thành trung tâm của
các hoạt động kịch.Quay quanh nó là các nhân vật phụ và sự va chạm giữa nhân vật
chính và nhân vật phụ này sẽ làm nổi bật tính cách của nhân vật chính. Sự va chạm
đó sẽ khắc họa dần dần tính cách của nhân vật chính. Ở “Lão hà tiện” sự bộc lộ
tính cách bộc lộ qua sự mâu thuẫn, qua cái tâm trạng lo lắng, nghi ngờ thường
xuyên của lão Harpagon: lão lẩm bẩm một mình về món tiền lão có, lão sợ khi nghe
tiếng chó sủa, khi có người hỏi thì lão kêu bận, nnhuwng khi bảo người ấy mang
tiền đến thì lão hộc tốc ra ngay. Tựa như có hai con người trong con người
Harpagon vậy.
Nhìn chung, cách xây dựng tính cách qua
nhân vật chính cũng làm phong phú cho tiếng cười của Moliere. Cách xây dựng đó
đều nhằm làm nổi bật nét chủ đạo trong tính cách nhân vật và từ đó tạo ra tiếng
cười sâu sắc, có ý nghĩa xã hội cao.
C
Tính cách các nhân vật phụ
Tiếng
cười nhiều cung bậc của hài kịch Moliere còn bật lên tính cách của nhân vật phụ.Các
nhân vật phụ trong hài kịch Moliere đều có một tính cách riêng, một đặc điểm
tâm lí riêng mặc dù nhiều khi chưa hoàn chỉnh.Các tính cách này được đặt trong
mối quan hệ tiếp xúc, đụng độ với tính cách của nhân vật chính mà nổi bật lên đồng
thời góp phần tô điểm và khắc họa thêm cho tính cách của nhân vật chính.Nói
cách khác, chúng tạo thành các mặt của một quá trình phát triển.Từ đó tạo nên
các cung bậc khác nhau của tiếng cười.
Trong “Lão hà tiện”, nhân vật bác
Jacques rất đáng để ý. Đó là một con người mộc mạc, chân tình, vui tính nhưng
nhát gan. Với tư cách là đầu bếp, bác muốn nấu một món ăn thật ngon với các món
thật bài bản thì Harpagon bịt miệng bác không cho bác nói. Với vị trí người
đánh xe ngựa, bác bày tỏ tình thương con ngựa thiếu ăn mà qua cách diễn tả của
bác cũng làm cho người đọc, người xem phải bật cười. Cái thật thà của bác đã đặt
cha con Harpagon vào một cảnh ngộ hiểu nhầm tiêu biểu mà từ đó tính cách
Harpagon được khắc họa thêm sâu.Sự tương phản trong tính cách giữa bác và lão
chủ làm cho tiếng cười được tiếp thêm sinh lực mới tạo điều kiện cho khán giả
hiểu sâu sắc hơn bản chất nhân vật.
Tất
cả các hoạt động của nhân vật phụ cùng nhân vật chính tạo thành một bức tranh
xã hội sinh động, mà ở đó vang lên tiếng cười nhiều cung bậc. Biện pháp gây cười
qua tính cách nhân vật đã tạo ra cho hài kịch Moliere một chuỗi cười vui vẻ, có
giá trị xã hội và thẩm mĩ về nhiều mặt và cũng là một biện pháp gây cười độc
đáo, sáng tạo mang phong cách Moliere.
Bên
cạnh cái hài toát ra từ tính cách nhân vật, Moliere còn sử dụng biện pháp gây
cười bằng tình huống, tình tiết kịch.Các tình huống, tình tiết kịch đan chéo
nhau trong cốt truyện đã tạo ra sự bất ngờ để từ đó tính cách nhân vật được bộc
lộ ra.Tình huống là các tình thế kịch tạo ra bước ngoặt trong sự phát triển của
kịch tính, nó có tác dụng dắt dẫn sự phát triển của mâu thuẫn kịch, của xung đột
kịch. Ở vở kịch “Lão hà tiện” có 5 tình huống chủ yếu, tiêu biểu cho sự phát
triển của kịch tính và 5 tình huống bổ sung (xem bảng sau):
Tình huống / Hồi
|
I
|
II
|
III
|
IV
|
V
|
Tình huống chủ yếu
|
Cleante nhận ra ý đồ muốn cưới Mariane của bố
(Dựng vợ gả chông)
|
Cha đi vay nặng lãi gặp con đi vay
(Đi vay)
|
Mariane phát hiện ra Harpagon là bố của người yêu
mình
(Đã già còn làm thêm già)
|
Harpagon mất của
(Ăn cắp)
|
Cuộc nhận mặt bất ngờ, vui vẻ
(Bắt đến)
|
Tình huống bổ sung
|
Dàn xếp của quản gia Valere và “không của hồi môn”
|
Ưa nịnh, đã già lại còn làm già thêm
|
Cleante tháo nhẫn từ tay bố trao cho Mariane
|
Hiểu nhầm do bác Jacques gây ra giữa hai cha con
|
Hiểu nhầm giữa Valere mà Harpagon
|
Các
tình huống này đều hàm chứa trong nó những sắc thái khác nhau của tiếng cười,
chẳng hạn tình huống con đi vay gặp cha cho vay với lãi suất cắt cổ là một tình
huống tiêu biểu dẫn đến cái cười ra nước mắt. Tình huống đó Mariane phát hiện
ra người mình được làm mối cho lại là cha của người mình yêu dẫn tới một cái cười
châm biếm, lên án số phận chớ trêu, oái oăm, nghịch cảnh. Đồng thời qua những
tình huống tiêu biểu ấy tính cách được khắc họa đậm nét hơn, tâm lí nhân vật được
hiện ra sâu sắc hơn.Các tình huống này đều là các tình huống có vấn đề, tạo ra
chiều phát triển cho kịch tính của hành động kịch. Chẳng hạn, tình huống
Cleante phát hiện ra bố mình có ý định cưới người yêu mình làm vợ đã thúc đẩy
anh ta đi vay với lời cam đoan “Bố sẽ chết trong vòng 8 tháng nữa” do đó sẽ dẫn
đến tình huống mới là con đi vay gặp bố là người cho vay. Tại tình huống này,
Harpagon tạm thời thắng thế và dẫn tới tình huống tiếp theo là màn gặp gỡ mà ở
đó Mariane phát hiện ra người yêu mình là con của người mà người ta đang mai mối
cho mình. Tình huống này sẽ dẫn đến tình huống hiểu nhầm trong cảnh hai cha con
Harpagon tranh nhau người yêu và đạt tới đỉnh điểm bằng tình huống Harpagon mất
của. Như vậy, mỗi một tình huống đều hàm chứa trong nó một sắc thái nào đó của
tiếng cười.Nói cách khác tình huống kịch cũng là một biện pháp gây cười có hiệu
quả, bản thân nó cũng tạo ra được những hiệu ứng hài kịch quý giá.
Bên
cạnh các tình huống kịch thì các tình tiết cũng giữ một vai trò quan trọng
trong việc gây cười.Ngoài 10 tình huống trên, còn rất nhiều tình tiết khác nhau
xoay quanh tình huống đó với tính chất làm tang dần sắc thái của tiếng cười hoặc
làm giảm tính chất căng thẳng của kịch tính.Ở lớp 1, hồi I vở “Lão hà tiện”,
tình tiết xuất hiện với câu chuyện tình ca Valere – Elise; ở lớp 2, hồi I, cũng
vẫn là tình tiết nói về tình yêu.Ở cả hai lớp này đã xuất hiện nét tính cách
tiêu biểu là hà tiện. Sang lớp 3, hồi I, tình tiết Harpagon giận dữ quát tháo đầy
tớ có tác dụng minh họa nét tính cách hà tiện đồng thời tạo ra một tiếng cười
có cung bậc cao hơn.
Các
tình huống, tình tiết là những biện pháp gây cười khá quan trọng, góp phần tạo
ra tiếng cười nhiều cung bậc trong vở kịch này.Các tình huống, tình tiêt cũng
đóng vai trò tương tự trong các vở kịch khác của Moliere.Ông sử dụng chúng rất
nhuần nhuyễn, tài tình không có tình huống, tình tiết nào trùng lặp.Tất cả tạo
ra cái mới mẻ, hấp dẫn và hứng thú khiến người đọc, người xem không chán. Bản
than cốt truyện cũng mang tính hài: một lão giàu có mà keo kiệt lại rắc tâm cưới
một cô vợ trẻ, cô gái này lại là người yêu của con trai mình, trong khi đó lão
sắp đặt dựng vợ cho con trai là một bà góa, gả con gái cho một ông lão. Như vậy,
cùng với các tình huống, tình tiết với tư cách là các biện pháp gây cười, cốt
truyện của vở kịch cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng tiếng
cười nhiều cung bậc.
3.3Biện
pháp gây cười bằng các biện pháp khác
Ngoài
các biện pháp gây cười lớn như gây cười qua tính cách nhân vật, qua tình huống
tình tiết kịch, Moliere còn sử dụng biện pháp gây cười khác ở cấp độ nhỏ hơn
nhưng cũng có một hiệu ứng hài kịch đáng kể.
a.Cường điệu
Moliere
thường tập trung miêu tả một tính cách, một dục vọng và biện pháp nghệ thuật được
ông dùng là cường điệu tính cách, dục vọng đó lên. Tính hà tiện của Harpagon được
cường điệu tới mức điển hình, nó được thể hiện mọi nơi, mọi lúc, mọi hành vi, cử
chỉ của nhân vật. Tất cả con người Harpagon đều gắn với thói vụ lợi, quan hệ với
ai lão cũng sợ thiệt thòi cho nên lão chỉ đưa tay cho người “mượn” chứ không phải
đưa “cho”. “Cho” là một tiếng mà lão ta căm ghét đến mức không khi nào lão ta
nói (lớp 4, hồi II).Bản kê khai “Các đồ đạc thổ tả” là một sự cường điệu và qua
cách cường điệu đó tự nó tạo ra tiếng cười.Như vậy xét về phương diện gây cười,
cường điệu là một yếu tố quan trọng trong hư cấu tác phẩm, nó làm cho tính cách
nhân vật chính được bộc lộ rõ thêm và hình tượng nhân vật thêm sinh động, bộc lộ
những mâu thuẫn và có hiệu quả gây cười.Trong các vở hài kịch của Moliere cũng
như trong các vở truyền thống chúng ta đều gặp biện pháp cường điệu này.Khi thổi
phồng hiện tượng hoặc sự việc, cường điệu đã làm tang và làm nổi bật sự mâu thuẫn
giữa nội dung phản ánh và hình thức phản ánh, hình thành ngay từ đầu cơ chế của
cái cười. Bởi vì một hiện tượng hay một sự vật nếu chỉ tồn tại đơn điệu thì
không có khả năng gây cười, nhưng tô đậm nó đi, thổi phồng nó lên làm cho nó bị
biến dạng với bản chất đích thực của nó thì lúc ấy nó sẽ có tính hài. Như vậy,
cường điệu là một biện pháp gây cười.Sắc thái của tiếng cười phụ thuộc vào sự
cương điệu ấy gắn với nhân vật nào.Moliere trong tác phẩm “Lão hà tiện” đã sử dụng
nhiều lần biện pháp này và gắn liền với tính cách nhân vật Harpagon, thổi phông
tính cách này lên với một dụng ý nghệ thuật nhất định.Việc Harpagon đòi treo cổ
toàn nhân loại vì một tráp bạc là một ví dụ tiêu biểu của biện pháp cường điệu
này.Và ở đây nó đã đạt tới đỉnh cao với tiếng cười châm biếm, tạo cho tiếng cười
giá trị phê phán cao.
b. Biện pháp hiểu lầm
Để có thể tạo nên được cái cười đặc sắc trong Lão hà tiện, chúng ta không thể không
nói đến việc sử dụng biện pháp hiểu lầm của Molière. Đây là một trong những biện
pháp hài kịch truyền thống của mọi thời đại, dựa trên cơ sở sự lẫn lộn lung
tung, ông nói gà bà nói vịt dẫn đến sự hiểu lầm. Việc hiểu lầm được tác giả sử
dụng tài tình ở các loại nhân vật khác nhau với những tính cách khác nhau, từ
đó tạo ra cái cười nhiều sắc thái, cung bậc.Đọc lão hà tiện, chúng ta sẽ nhận ra khá dễ ràng việc hiểu lầm qua bề mặt
ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật, nó được thể hiện rõ nhất ở lớp 4 hồi IV,
lớp 2 và lớp 3 của hồi V.
Ở hồi IV, lớp 4 cảnh hiểu lầm xảy ra giữa hai cha
con Harpagon bởi sự đứng ra dàn hòa của bác Jacques:
“…
Arapagông
(Harpagon) :-Bác
cả Giăc tôi muốn nhờ ngay bác phân sự hộ cái việc này, để tỏ rõ là tôi
phải mười mươi đi đấy chứ .
Bác
cả Giăc(Jacques):-Xin vâng (nói với Clêan) –Cậu hãy lánh
ra một tý.
Arapagông:-Tôi
yêu một cô gái mà tôi muốn lấy; thế mà cái thằng chết treo kia nó láo xược dám
cùng yêu với tôi và đòi lấy làm vợ, bất chấp cả huấn lệnh của tôi.
Bác
cả Giăc:-Ồ !Thế thì cậu ấy trái rồi.
Arapagông:-Con
mà định cạnh tranh với cha có phải là một chuyện ngỗ ngược quá đáng không nào?
Bổn phận của nó là phải kính nể tôi, không được động đến tình yêu của tôi có phải
không nào?
Bác cả Giăc:-Cụ dạy phải lắm. Để tôi giảng giải cho
cậu ấy: cụ cứ đứng đây (Bác tiến lại chỗ Clêan ở góc bên kia sân khấu).
[…]
Bác
cả Giăc:-Thế thì cụ trái lề lè ra đấy rồi.
Clêan(
Cléante):-Ngần ấy tuổi rồi , mà còn nghĩ đến chuyện cưới vợ
thì có dơ dáng không chứ? Còn yêu với đương, thì có coi được không?Đáng lẽ ông
cụ nên để cái trò ấy cho bọn trẻ, có phải không nào?
Bác
cả Giắc:…(Trở lại với Arapagông )…Cậu nói rằng cậu vẫn biết
là bổn phận phải kính trọng cụ, vừa rồi chỉ là lúc đầu quá nóng mà phát khùng đấy
thôi,và cậu sẵn sàng tuân theo ý cụ, miễn là cụ vui lòng đối sử với cậu cho nhẹ
nhàng hơn và cưới cho cậu một người nào mà cậu có thể ưng ý là được.
[…]
Bác
cả Giăc:…(Bác đi tới Clêan)…cụ rất sẵn lòng cho cậu được
như ý nguyện, miễn là cậu khéo sử cho từ tốn với cụ cho lễ độ, tôn kính và phục
tòng đúng đạo làm con.
[…]”
Sự hóa giải có thể là ngờ nghệch hay cố ý của bác
Jacques đã làm cho cuộc xung đột giữa hai cha con trước đó vì tranh giành người
yêu tạm thời hòa hoãn, lắng xuống, nhưng chính vì thế mà sau đó lại bùng nổ dữ
dội hơn, đẩy nhân vât vào tình thế bi đát, và ở đây xuất hiện tiếng cười bi kịch.
Việc sử dụng biện pháp hiểu lầm ở đây còn giúp giảm căng thẳng kịch, để tránh
trường hợp mâu thuẫn bị đẩy cao quá nhưng chưa có cách giải quyết mà không có
điểm lắng sẽ trở thành bi kịch.
Không chỉ ở lớp 4 hồi IV mà ở lớp 2 hồi V, bác
Jacques cũng là nhân tố chủ chốt gây hiểu lầm. Tại góc sân khấu bác nói về việc
chọc tiết con lợn ,nhưng lại làm cho Harpagon đang đau đớn vì mất người bạn tri
kỉ , quan trọng nhất của mình là cái tráp bạc tưởng rằng bác đang nói về thằng
ăn trộm. Tại đây thì cái cười mỉa mai, châm biếm xuất hiện , chủ yếu chĩa về
phía Harpagon –mù quáng, ai cũng bị lão nghi là đã ăn trộm cái tráp của mình và
chĩa vào cả viên cẩm. Việc hiểu lầm đã tô đậm lên cái đau xót đến đáng mỉa mai
của một kẻ hà tiện khi mất của.
Sự hiểu lầm hay nhất của vở kịch diễn ra trong cuộc
đối thoại tay đôi giữa Valère và Harapagon ở lớp 3 hồi V. Trước đó, Valère bị
bác Jacques tố cáo là thằng ăn trộm tráp bạc của Harapagon. Đến cuộc đối thoại
của hai nhân vật này, ta thấy rõ tính chất ông nói gà bà nói vịt : một người
nói chuyện tiền còn bên kia nói chuyện tình. Yếu tố làm nên sự hiểu lầm ở đây
là ngôn ngữ lấp lửng của mỗi nhân vật, họ không nói rõ ý của nhau và cũng không
hỏi lại đối phương mà tự suy luận theo mạch suy nghĩ và cảm xúc của mình ngay từ
đầu. Một sự hiểu lầm thú vị đã dược Molière tạo ra. Tiếng cười châm biếm xuất
hiện ở đây khi sự hiểu lầm kết thúc bằng câu nói của Harapagon: “Thật là phúc bất
trùng lai, họa vô đơn chí! Thôi thưa ngài, xin ngài làm chức vụ đi cho và ngài
lên án nó hộ tôi, về tội ăn cắp và quyến rũ”- kể cả đang nói đến việc liên quan
đến con gái nhưng lão cũng không thể quên việc quan trọng nhất với mình bây giờ
là tóm được thằng ăn trộm và sử tội nó.
Biện pháp hiểu lầm được Molière sử dụng trong các vở
kịch khác ngoài Lãohà tiệnnhư :Tartuffe, Tư sản quý tộc. Nó đã góp phần
tạo nên tiếng cười nhiều cung bậc trong lão
hà tiện, đạt hiệu quả cao trong việc gây cười và tạo hiệu ứng hài kịch. Bản
thân hiểu lầm cũng có tác dụng nuôi dưỡng
mâu thuẫn kịch tạo điểm lắng cho mâu thuẫn , dẫn dắt kịch phát triển theo một
hướng nào đó, tạo điểm xoáy để hành động kịch phát triển kịch tính .Bên cạnh đó
nó còn hấp dẫn và đem lại tiếng cười cho khán giả. Như vậy, biện pháp hiểu lầm đã được thể hiện rõ nét và
đạt hiệu quả cao trong việc tạo nên cái cười trong lão hà tiện.
c. Biện pháp trùng lặp
Biện pháp trùng lặp là một biện pháp hài kịch truyền
thống.Trong hài kịch Molière, nó xuất hiện đa dạng ở cả ngôn ngữ và hành động.
Về ngôn ngữ: là sự nhắc đi nhắc lại một từ , một đảo ngữ, đôi khi nó còn là sự
nhắc đi nhắc lại các ý kiến được biểu hiện bằng các từ ngữ khác nhau góp phần tạo
nên cái cười phong phú của hài kịch. Về hành động: đó là sự bắt chước động tác
của nhau của các nhân vật.Trong vở kịch Lão
hà tiện, biện pháp này được Molière sử dụng và đạt hiệu quả tích cực, dựng
lên một tấm gương phản chiếu trung thực sự lố bịch kệch cỡm của nhân vật.
Thứ nhất, là sự lặp đi lặp lại một biểu cảm, một đoản
ngữ của nhân vật nào đó.Điều này được minh chứng rõ nét trong ngôn ngữ và hành
động của Harpagon ở màn “không của hồi môn” (lớp 5 hồi I).Ở đây, đang nói về việc
Harpagon muốn gả con gái của mình cho một người chênh lệch nhiều tuổi vì người
đó không cần hồi môn của nhà gái, Valère và Harpagon đối thoại với nhau, dù
Valère có dùng lời lẽ, lí do gì thì quyết định của lão hà tiện vẫn không thay đổi
, nó được lão thể hiện một cách máy móc, kệch cỡm qua việc lặp lại biểu cảm và
lời thoại: “
không cần hồi môn”. Tiếng cười bật lên bởi chính sự rập khuôn , máy móc đó của nhân vật khi khăng khăng theo đuổi đến cùng mục tiêu duy nhất. Những biểu hiện này gắn liền với tính cách hà tiện của Harpagon , sự trùng lặp nhằm khẳng định tính cách và nâng lên mức cao hơn của tính cách ăn sâu vào bản chất của nhân vật ấy. Nó không chỉ làm bật lên tiếng cưới hề kịch sảng khoái từ khán giả mà còn làm bật lên tiếng cười châm biếm, mỉa mai sâu sắc.
không cần hồi môn”. Tiếng cười bật lên bởi chính sự rập khuôn , máy móc đó của nhân vật khi khăng khăng theo đuổi đến cùng mục tiêu duy nhất. Những biểu hiện này gắn liền với tính cách hà tiện của Harpagon , sự trùng lặp nhằm khẳng định tính cách và nâng lên mức cao hơn của tính cách ăn sâu vào bản chất của nhân vật ấy. Nó không chỉ làm bật lên tiếng cưới hề kịch sảng khoái từ khán giả mà còn làm bật lên tiếng cười châm biếm, mỉa mai sâu sắc.
Tiếp theo là sự sử dụng trùng lặp một đoản ngữ, một
câu , sự lặp lại động tác của nhau do hai nhân vật đưa ra. Trong Lão hà tiện, Molière đã sử dụng kiểu
trùng lặp này ở lớp 4 hồi I-ở đây ngoài việc giới thiệu đầu mối câu chuyện kịch,
tác giả còn cho thắt nút kịch: Harpagon quyết định lấy Mariane- người con trai
yêu làm vợ, gả con gái cho ông già
Anselme –theo lời lão thì “chưa ngoài năm mươi”, bắt con trai lấy một bà
góa, từ đó phá vỡ mối tình của các con mình, nhất là việc lão cùng con trai
tranh dành người yêu .Sự trùng lặp này xuất hiện khi hai cha con Harpagon và
Elise cãi nhau vì cô con gái kiên quyết từ chối cuộc hôn nhân này:
“Ely(Elise):
(làm lễ chào)-con không muốn lấy chồng thưa cha ,xin cha vui lòng.
Aparagông:
(nhại lại lời chào)-Còn tôi, thưa cô gái bé nhỏ của tôi, thưa cô em, tôi muốn
cô lấy chồng, xin cô vui lòng vậy.
Ely:
(lại làm lễ chào)-Thưa cha, con xin lỗi cha.
Aparagông:
(Lại nhại)-Con ơi, cha xin lỗi con nhé.
[…]”
Hai cha con Harpagon cứ có sự lặp đi lặp lại, bắt
chước lời nói, hành động của nhau như vậy tưởng như một trò hề không có điểm dừng.
Và tác giả đã đưa nhân vật thứ ba là Valère vào để gỡ rối. Nhưng nhân vật này
cũng chỉ có thể làm dừng lại sự trùng lặp đầy kịch trong đối thoại giữa hai cha
con ,chứ không thể thay đổi được ý định gả Elise cho một người chệch lệch tuổi
quá lớn với cô.Quyết định của lão vô cùng độc đoán. Và ở đây, cái cười chế giễu,
mỉa mai, châm biếm bật lên không chỉ vì sự kệch cỡm, không hợp lẽ thường trong
cuộc đối thoại giữa hai cha con mà còn ở tính cách của Harpagon.Biện pháp trùng
lặp được tác giả sử dụng càng làm nổi bật, tô đậm thêm bản chất hà tiện của
Harpagon, lão thà đánh đổi hạnh phúc của con gái mình chỉ để không phải mất tiền
hồi môn khi cưới.Cái cười ở đây là cái cười châm biếm, mỉa mai nhưng cũng không
kém phần chua xót vì lợi ích, tiền bạc đã chiến thắng tình cha con.
Ở lớp 4 hồi IV, Molière không chỉ sử dụng biện pháp
hiểu lầm mà còn sử dụng biện pháp trùng lặp để tạo tiếng cười nhiều sắc thái.
Đó cũng là sự lặp lại về ngôn ngữ trong đối thoại giữa hai cha con là Harpagon và Cléante tranh
nhau người yêu và nhờ bác Jacques ra phân xử. Ngoài sự trùng lặp trong cấu trúc
lời nói , từ ngữ giữa hai cha con này, còn có sự trùng lặp trong chính lời nói
của bác Jacques, bởi nhân vật này là một yếu tố quan trọng làm tăng hiệu quả
gây cười cho lớp kịch này nói riêng và vở kịch Lão hà tiện nói chung:
“Bác cả Giăc(
nói với Aparagông):-Ồ! Thế thì cậu ấy trái rồi.
Bác
cả Giăc( Nói với Clêan): -Thế thì cụ trái lè lè ra đấy rồi.”
Sự hòa giải của bác Jacques tạo ra sự hiểu lầm tai hại
về sau , góp phần làm cho kịch tính thêm sâu sắc để tạo dẫn tới một tiếng cười
bi kịch ra nước mắt.
Như vây, biện pháp trùng lặp đã góp phần công sức của
mình để tạo nên cái cười nhiều cung bậc đặc sắc trong Lão hà tiện. Ngoài vở kịch này, ta có thể bắt gặp biện pháp này ở
các vở kịch khác cuae Moliere như: Tư sản
quý tộc, Người bệnhtưởng, Don Juan,…với hiệu quả gây cười đạt hiệu quả cao.
d.Biện
pháp gây cười bằng động tác biểu diễn mang tính hề kịch
Việc dàn dựng , sắp xếp trang phục ,các động tác biểu
diễn sân khấu và ngôn ngữ của diễn viên cũng góp phần không nhỏ vào việc tạo
nên tiếng cười trong các vở hài kịch và Lão
hà tiện của Molière cũng vậy.
Chính biện pháp gây cười đặc sắc này đã được Molière
tiếp thu và sử dụng một cách thành thạo, sáng tạo trong các vở kịch của mình tạo
ra tiếng cười phác xơ, đầy hề kịch một cách ồn ào, náo nhiệt. Nhưng trong hài kịch
của Molière nói chung, trong Lão hà tiện
nói riêng, nó có giá trị riêng, tạo ra cái cười sâu sắc hơn chẳng hạn: cảnh
khám xét bàn tay thứ ba, cảnh thổi tắt ngọn nến thứ hai của Harpagon. Cái đáng
cười ở đây không chỉ ở động tác sân khấu buồn cười của nhân vật mà nó sâu sắc
hơn ở chỗ: tất cả những động tác đó đều được điều khiển bởi một tính cách, bản
chất hà tiện ở mức độ cao. Khi khán giả bật lên tiếng cười phác xơ thì cũng là
lúc nhận ra được sự châm biếm, mỉa mai đối với những hành động của nhân vật.
Ngoài động tác biểu diễn, ngôn ngữ , giọng điệu của
nhân vật cũng là một trong những yếu tố không thể thiếu để gây cười cho khán giả.Mỗi
loại nhân vật có ngôn ngữ riêng phù hợp với tính cách của mình.Ngôn ngữ được
nhân vật thoại ra trên sân khấu có những giọng điệu riêng hợp với tình huống
khác nhau. Ngôn ngữ nhân vật đầu tiên là dễ hiểu, khi nhân vật nói cũng là khi
khán giả cảm thấy buồn cười ngay trên bề mặt ngôn ngữ, đồng thời nó cũng góp phần
tạo kịch tính khi xảy ra mẫu thuẫn bằng việc kết hợp của giọng điệu và biểu cảm
của nhân vật. Có thể nói ngôn ngữ, giọng điệu nhân vật góp phần tạo ra cái cười
cao- cái cười có ý ngĩa xã hội và có giá trị giáo dục thẩm mĩ.
Biện pháp gây cười bằng động tác biểu diễn mang tính
hề kịch đã làm khán giả được cười từ cái cười thoải mái, tự nhiên nhất rồi sau
đó mới nhuần thấm cái cười sâu sắc đằng sau nó, thỏa mãn người xem cả về mặt
nghe và nhìn.
=>Tiểu kết:
Như vậy, Molière đã sử dụng nhiều biện pháp gây cười khác nhau, chồng chéo lên
nhau để tạo ra cái cười nhều cung bậc và cuối cùng tạo ta cái cười cao nhất,
cái cười bật ra từ chính tính cách hà tiện trong Lão hà tiện. Các biện pháp gây cười là những cách khác nhau, mang
những đặc điểm riêng, nhưng đều được sử dụng nhằm làm bật lên tiếng cười nhiều
cung bậc của tác phẩm. Tưởng chừng chúng dẫn dắt người xem từ tiếng cười phác
xơ ồn ào đến cười ra nước mắt đầy bi kịch, nhưng sau đó lại kéo độc giả trở về
với sự vui tươi, hề kịch đúng với tính chất của hài kịch, tuy nhiên vẫn thấm
thía cái xót xa, đau đớn trong đó, tác động mạnh mẽ vào nhận thức và suy nghĩ của
khán giả.
IV.
Vai trò của kết cấu đối với tiếng cười nhiều cung bậc trong vở kịch Lão hàtiện
Kết cấu là một phương diện cơ bản của tác phẩm nghệ
thuật . “Một tác phẩm nghệ thuật bao hàm nhiều sự kiện, nhiều bộ phận phức tạp,
nhiều hoàn cảnh và tình huống, được trình bày, được kiến trúc theo một trật tự,
một hệ thống nằm trong mối quan hệ nhất định. Trật tự, hệ thống cấu trúc và mối
quan hệ ấy gọi là kết cấu tác phẩm”. Với sự gắn bó chặt chẽ giữa nội dung và
hình thức của tác phẩm, kết cấu có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội
dung, tư tưởng, ý nghĩa của tác phẩm ,cũng như thể hiện được một cách hiệu quả
tính cách nhân vật. Kết cấu là yếu tố tổ chức tác phẩm bên trong, nó góp phần tạo
ra các mạch sống cho cơ thể tác phẩm.
Kết cấu có ảnh hưởng lớn đến giá trị nghệ thuật của
tác phẩm.Molière cũng rất quan tâm đến việc xây dựng kết cấu cho các vở hài kịch
của mình. “ Ông đã sắp xếp tổ chức kết cấu tác phẩm , biến kết cấu này thành một
không gian chứa đựng và nuôi dưỡng tiếng cười”.Mỗi tác phẩm của ông đều được
xây dựng với những kết cấu khác nhau, chúng không giống nhau về số hồi như: Lão hà tiện có 5 hồi, người bệnh tưởng 3 hồi, Những ả cầu kì rởm chỉ gồm 19 lớp kịch
không chia hồi; số lớp trong mỗi hồi cũng khác nhau tạo nên sự biến hóa uyển
chuyển, linh hoạt phù hợp với từng vở kịch. Bằng việc điều khiển các con chữ một
cách điêu luyện, sắp xếp, xử lí các hồi,
các lớp kịch một cách thành thạo đã giúp Molière tạo ra cái cười nhiều sắc
thái, nhiều cung bậc trong tác phẩm của mình. Và trong vở kịch Lão hà tiện , kết cấu đóng vai trò rất
quan trọng đối với việc thể hiện cái cười nhiều cung bậc.
Lão hà tiện
của Molière tuân thủ tương đối hoàn chỉnh kết cấu kịch cổ điển gồm 5 hồi được
phân chia thành: Hồi giới thiệu (giao đãi),hồi phát triển, hồi cao trào,hồi đột
biến và hồi cởi nút. Kết cấu còn được thể hiện ở sự biến thiên các sắc thái của
tiếng cười.Các sắc thái của tiếng cười được tác giả sắp xếp đan xen, chồng chéo
vào nhau, khó xác định và gây ra những cái cười bất ngờ cho người xem. Molière
điều khiển các sắc thái này qua cách sắp xếp các lớp, các hồi kịch, đặc biệt là
qua ngôn ngữ nhân vật.Với Lão hà tiện, các sắc thái của cái cười
đan xen với nhau trong tổng thể vở kịch và ngay cả trong các màn kịch cao trào
đầy mâu thuẫn , trong ngôn ngữ của từng loại nhân vật. Kết cấu được thể hiện
qua việc điều khiển các sắc thái của cái cười này đã giúp cho Lão hà tiện về tổng thể là một tiếng cười
vui vẻ, giòn giã, mang tính chất thẩm mĩ và có giá trị xã hội cao. Nó giúp cho
tiếng cười không đơn điệu mà thực sự gây cho khán giả sự hứng thú, sảng khoáng
và qua đó thấm dần cái cười ý nghĩa, sâu sắc của tác phẩm.
Việc sắp xếp các lớp kịch nối tiếp nhau trong một hồi
nhằm thông báo cái gì sẽ đến ở lớp sau, hồi sau nhằm tạo sự hứng thú chờ đợi
cho người xem.Ví dụ như ở hồi I là hồi giao đãi, nó đã giới thiệu đầu mối câu
chuyện kịch, nhân vật kịch và không gian thời gian xảy ra sự việc kịch. Câu
chuyện kịch ở đây được giới thiệu trước hết là câu chuyện tình yêu giữa các cặp
đôi trai gái: Valère-Elise,
Cléante-Mariane. Câu chuyện này phát triển và thành cao trào trong mâu
thuẫn, xung đột cơ bản của vở kịch khi Harpagon thông báo muốn lấy Mariane làm
vợ, gả con gái cho Anselme lớn tuổi, gả con trai cho một bà góa. Quyết định này
của Harpagon xuất phát từ chính tính cách, bản chất hà tiện của lão chứ không
hàm chứa một ý định, suy nghĩ gì liên quan đến hạnh phúc của con cái. Lão gả
con gái cho một ông già “chưa ngoài năm mươi” vì không mất của hồi môn, gả con
trai cho mọt bà góa có của, còn mình thì muốn lấy người yêu của con trai nhưng
cũng có chút đắn đo về việc hồi môn của Mariane. Tính cách này của lão đã được
nói đến từ trước ở những lớp 1, 2, 3 của hồi I và được dự báo rằng nó sẽ gây cản
trở cho tình yêu của các cặp đôi trên, để cho đến lớp 4 thì tính cách ấy được
thể hiện rõ nét qua những tính toán về tiền bạc, đặc biệt qua hành động và lời
nói như cái máy: “không cần hồi môn” khi nói về hôn nhân của Elise . Các lớp kịch
còn làm nhiệm vụ thông báo các nhân vật sẽ xuất hiện với các tính cách khác
nhau, chẳng hạn cuối lớp 1 Valère báo tin Cléante xuất hiện với nhận xét “tính
nết của hai ông con trái ngược nhau đến nỗi khó lòng dung hòa được”. Cuối lớp 2
hồi I, Cléante báo tin Harpagon xuất hiện và hồi 3 làm nhiệm vụ giới thiệu con
người hà tiện là Harpagon, nó còn giới thiệu nhân vật Flèche- nhân vật có chiến
công về sau là đánh cắp cái tráp bạc của lão hà tiện giúp cho các cặp tình nhân
yêu nhau thực sự đến được với nhau. Tiếng cười ở đây là tiếng cười châm biếm
cái sự hà tiện của lão, để cho đến lớp 4, 5 sự hà tiện lại được thể hiện ở mức
độ cao hơn và tiếng cười nhiều sắc thái đan xen: châm biếm, mỉa mai, khôi hài ,
cười ra nước mắt,...Và ở các lớp, các hồi tiếp theo cũng được sắp xếp để thực
hiện nhiệm vụ của nó là gây tiếng cười cho khán giả- cái cười nhiều cung bậc
ngay trong từng lớp kịch, hồi kịch.
Như vậy, sự kết cấu của từng hồi và bản thân sự kết
cấu của từng lớp kịch đều là không gian chứa đựng, nuôi dưỡng tiếng cười nhiều
cung bậc.Tất cả tạo nên cho vở kịch một chuỗi cười có khi ồn ào, khi trầm lắng,
khi lại cao vút, có khi còn ra nước mắt.
Kết cấu góp phần thể hiện tính cách nhân vật và
chính sự phát triển của tính cách hà tiện cũng là một điểm để kết cấu nương
theo để làm bật lên tiếng cười. Chúng ta có thể quan sát bảng sau đây:
Hồi
|
Tên gọi của hồi
|
Đặc trưng của hồi
|
I
|
Hồi giao đãi
|
Giới thiệu
tính cách hà tiện
|
II
|
Hồi thắt nút
|
Người hà tiện
cho vay nặng lãi
|
III
|
Hồi phát triển
|
Người hà tiện
thiết tiệc
|
IV
|
Hồi cao trào
|
Người hà tiện
mất của. Màn “Harpagon mất của”
|
V
|
Hồi cởi nút
|
Người hà tiện
tìm thấy tiền: “Harpagon tìm thấy tráp bạc yêu quý”.
|
Tính cách hà tiện được khắc họa qua từng lớp, từng hồi
lại càng tăng lên, được tô đậm lên và cuối tác phẩm kết tinh thành bản chất hà
tiện rất riêng biệt của nhân vật Harpagon đã ăn vào cốt tủy của ông ta. Cùng với
việc khắc họa tính cách nhân vật, Molière đã tạo nên một chuỗi cười sinh động với
cảm xúc, sắc thái đa dạng, phong phú. Điều này càng chứng tỏ tài năng của ông
trong việc xây dựng tính cách nhân vật và xây dựng kết cấu tác phẩm góp phần
hình thành và phát triển tính cách nhân vật theo đúng tiến trình phát triển
logic của nó nhằm tạo ra tiếng cười cho người xem.
Vai trò của kết cấu còn được thể hiện ở sự giao hòa,
đối thoại giữa sân khấu và người xem như là một màn không thể thiếu của vở kịch
trên sân khấu, khiến cho sân khấu và người xem không có sự gián cách mà trở nên
gần gũi, khán giả cũng có thể trở thành diễn viên ở những màn như thế này.
Trong vở kịch Lão hà tiện, thì điều
này được Molière xây dựng ở màn “ Harpagon mất của” ở lớp 7 hồi IV. Bản thân
màn này cũng có nhiều cảnh, mỗi cảnh tưng ứng với một sắc thái cười. Cảnh một,
Harpagon phát hiện bị mất tiền “lão kêu kẻ trộm từ trong vườn chạy ra, đầu
không đội mũ”, bộ dáng và biểu cảm hoảng hốt của lão không khiến cho người ta
thương hại mà chỉ khiến cho khán giả thấy buồn cười, thậm chí là thấy đáng đời
lão. Cảnh thứ hai là màn lão đang phân chia chính mình thành lão và người bạn
tiền của mình để đối thoại với nhau (nhưng thực chất đây là một màn độc thoại
). Và cảnh thứ ba là cảnh lão trong tư thế đối thoại với người xem, biến khán
giả thành nhân vật kịch, sân khấu bây giờ là toàn bộ kịch trường-một không gian
lớn.Kết cấu đã phát triển thêm một bước mới phá vỡ sự gián cách giữa nhân vật
và người xem. Lão đối thoại với người xem: “Này đằng kí đang nói chuyện gì thế?
Về cái đứa đã ăn trộm của tôi à? Ở trên kia, cái gì mà ồn ào thế? Kẻ trộm của
tôi ở trên đó à? Các ngài làm phúc, nếu ai biết tăm hơi đứa ăn trộm của tôi,
tôi van xin bảo cho tôi biết…”.Ở đây khán giả có thể trả lời lại hoặc không, nếu
không trả lời lại thì là lão đang độc thoại. Các cảnh trong lớp kịch này đã
nuôi dưỡng, phát triển cái cười từ thấp đến cao, từ cười hề kịch sang cười mỉa
mai đến cười châm biếm, nó có thể lập thành bảng sau:
Cảnh
|
Nội dung của cảnh
|
Sắc thái tiếng
cười
|
1
|
Hapragon đầu
không đội mũ chân không giày
|
Tiếng cười hề
kịch
|
2
|
Harpagon tâm sự
với bạn tiền yêu quý
|
Tiếng cười mỉa
mai
|
3
|
Harpagon chất
vấn khán giả
|
Tiếng cười
châm biếm.
|
Kết cấu còn được thể hiện ở cách sắp xếp, bố trí
nhân vật.Thông thường trong kịch thường có hai tuyến nhân vật đối lập tạo thành
xung đột cơ bản trong kịch, tạo thành cuộc đấu tranh trong kịch, mỗi tuyến có
nhiều nhân vật. Nhưng trong Lão hà tiện
sự đối lập cũng không hẳn là như thế, nó không phải là đấu tranh một mất một
còn mới mở được nút, mà ở đây gồm hai phe: một bên là Harpagon và một bên là
các nhân vật còn lại. Về tương quan lực lượng, có vẻ hai bên mất cân bằng,
chênh lệch lớn, nhưng ở đây thì điều này không quan trọng vì “Harpagon đã làm
thành một trung tâm duy nhất điều khiển mọi hoạt động kịch”, bản thân lão tạo
thành với các nhân vật khác các cặp xung đột và trong đó bao giờ lão cũng dành phần
thắng, mọi hoạt động của các nhân vật khác đều xuất phát từ hoạt động của lão.
Tính hà tiện của lão chi phối tất cả, nhưng hoạt động, sự đáp trả của các nhân
vật khác cũng có tác dụng phản chiếu tính hà tiện ấy, đồng thời chuyển hướng hoạt
động kich ,đưa lão vào một tình thế phải chọn lựa giữa tiền và người yêu và lão
đã chọn tiền theo đúng bản chất của mình bới với lão tiền và hà tiện đã ăn sâu
vào máu. Như vậy, Molière đã xây dựng được một hình tượng nghệ thuật độc đáo,
điển hình nhưng cũng có những đặc trưng riêng của mình là Harpagon.Harpagon với
tính cách hà tiện của mình và trong mối quan hệ tác động lẫn nhau với các nhân
vật khác đã làm bật lên những tiếng cười khác nhau tùy thuộc vào mối quan hệ với
từng nhân vật.Tác giả để các nhân vật xuất hiện như vậy qua từng lớp, từng hồi
với thứ tự trước sau đều nhằm làm nổi bật lên tính cách hà tiện đáng cười của
Harpagon và cái đáng cười trong tính cách của các nhân vật khác.
Từ cái cười
phác xơ ban đầu, tính cách hà tiện của lão còn dẫn đến cái cười ra nước mắt qua
những bi kịch xuất hiện trong gia đình:
cha con không coi nhau ra gì, tranh giành người yêu ; cha thì muốn gả
con gái cho một ông già vì không cần hồi môn, bắt con trai lấy một bà góa có của;
con trai ăn cắp tiền của cha để được cưới người mình yêu. Đúng là một gia đình
từ trên xuống dưới đều có vấn đề, thật đáng cười nhưng càng đáng buồn hơn khi đồng
tiền, sự hà tiện nhúng tay vào làm tha hóa cả nhân cách và tình ruột thịt. Tác giả không để tính bi kịch đi đến cuối mà đã để sự mở nút để cái
kết vẫn là cái cười vui vẻ vang lên. Đây là một cách sử lý kết cấu hợp lý của
Molière để vở hài kịch trở về đúng tính chất của hài kịch không bị lệch hướng
sang bi kịch.
=>Tiểu kết:
Tóm lại, chúng ta có thể khẳng định rằng: kết cấu có vai trò vô cùng quan trọng
đối với việc tạo ra tiếng cười nhiều cung bậc trong vở kịch Lão hàtiện.Nó chính là một chỉnh thể
-môi trường nuôi dưỡng, phát triển cái cười.Nó góp phần cho ta thấy một tính
cách hà tiện mang những đặc trưng riêng, cũng như tài năng xuất chúng của
Molière. Cả bề mặt cũng như bề sâu của kết cấu đều có giá trị cao,có tác động mạnh
mẽ gâyười cho khán giảvà cũng khiến khán giả tự nhận thức, thấm thía nhiều điều
sâu sắc sau tiếng cười ấy. Kết cấu của Lão
hà tiện còn cho ta hiểu hơn về nghệ thuật sân khấu, thấy được sự khác biệt
giữa hài kịch phương Tây và phương Đông (trong đó có Việt Nam) và khẳng định
giá trị nội dung, nghệ thuật của vở kịch này nói riêng , của nghệ thuật kịch
nói chung.
V.
Ý nghĩa của tiếng cười trong vở kịch Lão hà tiện của Moliere
Trong
văn học, tiếng cười dường như xuất hiện rất sớm và được nhiều nhà văn sử dụng
như một công cụ đắc lực bày tỏ những suy
nghĩ của cá nhân về những vấn đề của cuộc sống đương thời. Tiếng cười gợi lên
nhiều ý nghĩa, nó vừa là tiếng cười yêu đời lạc quan đồng thời cũng là tiếng cười
mỉa mai, châm biếm và phê phán thực trạng xã hội đương thời và nó cũng trở
thành một yếu tố quan trọng để giáo dục con người.
Sáng
tác Lão hà tiện Moliere đã sử dụng một
chất liệu đặc biệt là tiếng cười nhiều cung bậc.Tiếng cười nhiều cung bậc này
đã khắc hoạ sâu sắc và tạo ra bức tranh sinh động về tính cách hà tiện với các
nét điển hình của nó như keo kiệt, cho vay nặng lãi. Nói cách khác tính cách hà
tiện tồn tại và phát triển theo các cung bậc của tiếng cười. Với tiếng cười nhiều
cung bậc vở kịch Lão hà tiện, cái cười
của ông luôn luôn mang niềm tin vào sự toàn thắng của các lí tưởng nhân đạo,
vào sức mạnh của lí trí, lương tri.Bởi vậy vở kịch Lão hà tiện dù có tố cáo xã hội gay gắt, dù tiếng cười bi kịch, cười
ra nước mắt xuất hiện nhiều lần vẫn toát lên lòng yêu đời và chủ nghĩa lạc
quan.
Moliere
đã dùng tiếng cười hề kịch để lên án và phê phán các tệ nạn xã hội đồng thời muốn
loại bỏ chúng ra khỏi cuộc sống. Việc vận dụng và sử dụng tiếng cười hề kịch sẽ
giúp cho xã hội sống trong sạch hơn, bản thân nó sẽ là một vũ khí có lợi cho việc
giáo dục con người và đào tạo xây dựng con người mới. Đó cũng là một di sản văn
hoá vô giá mà Moliere để lại cho chúng ta.
Tiếng cười khôi hài trong thực tiễn có giá trị
rất lớn, bởi vì nó dã khẳng định cái mới, tăng thêm sức mạnh cho cái mới. Điều
đó giúp chúng ta hiểu rõ vì sao Moliere lại đặt tiếng cười vào các nhân vật
tiên tiến, mang lương tri và lí trí của thời đại. Nhận thấy được điều đó, chúng
ta hiểu thêm Moliere và giá trị nhân đạo mà ông khẳng định cũng như lí tưởng thẫm
mĩ mà ông theo đuổi.
Trong
cuộc sống thực tiễn, tiếng cười mỉa mai đựơc sử dụng khá rộng rãi, bởi vì nó
không phải chỉ mỉa mai người khác, mỉa mai các hiện tượng xấu xa mà nhiều khi tự
mỉa mai chính mình.Tuy tiếng cười mỉa mai mang tính chất chua xót, xót xa nhưng
nó giúp bản thân khắc phục được những tật xấu để mà vươn dậy, để mà tránh không
vấp lại những tình trạng cũ trước đây. Do đó phải biết nắm bắt và biết vận dụng
loại tiếng cười này trong khả năng thực tiễn của nó.
Tiếng
cười châm biếm là một tiếng cười truyền thống có sức chiến đấu cao đượccác nhà
nhân văn của các thời đại khác nhau sử dụng và sử dụng thành công.Các tác phẩm
châm biếm luôn luôn giữ nguyên giá trị của nó.Bản thân nó mang đã giáng một đòn
nặng trong cuộc tiến công vào những cái ác, cái lỗi thời, cái mục ruỗng. Trách
nhiệm của chúng ta là phải nắm và vận dụng đúng đắn tiếng cười đó để phục vụ
cho chính cuộc sống của mình,
Tiếng
cười bi kịch là một sáng tạo lớn của thiên tài Moliere, khiến ông trở thành một
người “độc nhất vô nhị” và “không ai bắt chước được”, chuyển dẫn của loại tiếng
cười này làm cho tính đa dạng của tiếng cười thêm phong phú tạo thành một cung
bậc cao nhất của tiếng cười trong hài kịch Moliere. Sự đan xen của các cung bậc
này đã giữ tiếng cười ở lại địa hạt của nó và không cho rơi vào bi kịch, khiến
cho hài kịch của ông có một sắc thái riêng và nét độc đáo riêng của nhân cách
Moliere.
Toàn
bộ vở kịch Lão hà tiện là một sự đan
xen của nhiều sắc thái khác nhau của tiếng cười.Sự hỗ trợ tương tác lẫn nhau giữa
các tiếng cười đã giữ cho toàn bộ vở kịch là một tiếng cười đầy âm sắc, thoải
mái và không để tiếng cười rơi vào địa hạt bi kịch. Âm hưởng của vở kịch diễn
biến theo các cung bậc của tiếng cười, tạo cho người đọc, người xem một sự cuốn
hút, bị mê hoặc bởi một thế giới của những tiếng cười kì lạ, có lúc thật vui vẻ,
thật thoải mái, có lúc lại buồn tê tái, ngậm ngùi. Tài năng của Moliere đã đưa
chúng ta vào tiếng cười kì lạ của tiếng cười ấy. Các tiếng cười này đều gắn chặt
với tính cách nhân vật và tạo nên tính chất sinh động cho các nhân vật đó theo
đúng dự đồ chủ quan của tác giả. Thành công của Moliere là chỗ đó, cùng với các
biện pháp nghệ thuật khác, ông đã sử dụng tiếng cười để xây dựng tính cách nhân
vật theo đúng lôgic phát triển khách quan của hình tượng và theo đúng nguyên tắc
điển hình hoá duy lí chủ nghĩa. Cho dù các sắc thái châm biếm, cười ra nước mắt
có xuất hiện nhiều hơn trong các tác phẩm nhưng nhìn chung hài kịch của Moliere
là một tiếng cười khoẻ khoắn vui vẻ, mang ý nghĩa thẫm mĩ xã hội rất lớn.
VI.
Tổng kết
Moliere
một tên tuổi lớn của chủ nghĩa cổ điển Pháp, của lịch sử văn học Pháp, của lịch
sử sân khấu thế giới. Bằng tài năng và niềm đam mê nghệ thuật sân khấu của mình
ông đã để lại cho nhân loại những sáng tác bất hủ với thời gian.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét