Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Xung đột kịch Trong khi chờ đợi Gôđôcủa Beckett



Môn: Văn học Tây Âu – Mỹ
Giảng viên: Nguyễn Linh Chi

Xung đột kịch Trong khi chờ đợi Gôđôcủa Beckett




Thành viên nhóm10: Ngữ Văn – K64 – Lớp tín chỉ (tiết 4-5 –thứ 3, 6):
1.                  Nguyễn Thị Thảo - D
2.                  Nguyễn Thị Hải Yến - D
3.                  Vi Thị Nhàn -  C
4.                  Đỗ Thị Mơ  - B
5.                  Bùi Thị Thùy Linh - B




Mục lục

Samuel Barklay Beckett (1906 –1989) là nhà văn, nhà viết kịch Ireland đoạt giải Nobel Văn học năm 1969. Samuel Beckett sáng tác bằng tiếng Anh và tiếng Pháp.
Samuel Beckett là con út trong một gia đình doanh nghiệp. Ông học ở nhà rồi vào học trường nội trú ở thành phố nhỏ Enniskillen; học tiếp trường Cao đẳng ở Dublin, khoa Văn học Hiện đại; học tiếng Pháp, tiếng Ý tại học viện Trinity tại Dublin. Tốt nghiệp, Beckett dạy học ở Belfast, sau đó đến Paris, kết bạn và giúp đỡ nhà văn đồng hương mắt lòa James Joyce hoàn thành tiểu thuyết Ngày giỗ Finnegan. Năm 24 tuổi ông trở lại học viện Trinity làm giảng viên.Từ năm 1932 Beckett đã xuất bản thơ và tiểu luận nhưng ít được chú ý. Trong thập niên 1930, để thoát khỏi không khí ngột ngạt trong nước ông đã ra nước ngoài và đi du lịch nhiều nơi.Năm 1937 Beckett định cư ở Paris, làm quen với người bạn đời tương lai (kết hôn năm 1961) là nữ nghệ sĩ dương cầm Suzann Dumesni; trong thời kì quân Đức chiếm đóng, ông tham gia phong trào kháng chiến.Năm 1942 Beckett cùng bạn gái chạy trốn bọn Ghestapo đến làng Russiona ở miền Nam nước Pháp, làm công nhân nông nghiệp. Cùng thời gian này ông viết tiểu thuyết Watt (hình thức chơi chữ: từ "What", tên nhân vật chính, trong tiếng Anh có nghĩa là "cái gì") nói về những gắng gỏi vô ích của một người muốn sống hợp lí trong thế giới phi lý. Đây là tác phẩm cuối cùng của Beckett viết bằng tiếng Anh, về sau ông sáng tác bằng tiếng Pháp, trong đó có bộ ba Molloy (1951), Malone meurt (Malone hấp hối, 1951) và L'innommable (Không thể gọi tên, 1953) là những thử nghiệm ngôn ngữ thể hiện những tìm tòi của nhà văn. Đề tài về tính chất phi lí của sự tồn tại xuyên suốt toàn bộ sáng tác về sau của ông, gồm cả những vở kịch truyền thanh và truyền hình.
Mặc dù tiểu thuyết chiếm chỗ quan trọng trong sáng tác của Samuel Beckett nhưng làm ông nổi danh thế giới lại là vở kịch En atttendant Godot (Đợi Gôđô) sáng tác bằng tiếng Pháp (viết năm 1946, công diễn năm 1953, xuất bản bằng tiếng Anh năm 1954 dưới tên Waiting for Godot). Cùng với thể loại kịch hoàn toàn mới - bị tước bỏ ý nghĩa và hành động kịch - Beckett đã đưa triết học hiện sinh chủ nghĩa lên sân khấu và gây sự kíchđộng mạnh mẽ trong công chúng và cả giới phê bình. Lúc này tất cả các tiểu thuyết của ông đều được theo dõi chăm chú. Fin de partie (Tàn cuộc chơi) là vở kịch thành công lớn thứ hai của ông. Năm 1966 ra đời tiểu thuyết cuối cùng của Beckett Comment c'est (Như điều đó).
Năm 1969 Samuel Beckett được đề nghị tặng giải Nobel vì toàn bộ những tác phẩm văn xuôi và kịch. Trong những năm tiếp theo ông viết các vở kịch một hồi; tự dàn dựng một số tác phẩm của mình; năm 1978 ông in một tập thơ ngắn. Ông mất ở Paris.
“Trong khi chờ đợi Gôđô” - tác phẩm được đánh giá là Vở kịch tiếng Anh đáng lưu ý nhất thế kỷ 20
Kịch bản nguyên gốc tiếng Pháp được sáng tác trong thời gian 9 tháng 10 năm 1948 đến 29 tháng 1 năm 1949. Tác phẩm được công diễn lần đầu vào 5 tháng 1 năm 1953 tại Nhà hát Babylone (Théâtre de Babylone), ParisPháp.
“Trong khi chờ đợi Gôđô”là một tác phẩm tiêu biểu cho loại kịch phi lý. Nó không có cốt truyện, cũng không có cao trào. Cũng có thể gọi nó là bi kịch mang tính chất trào lộng. Ở đây, Beckett muốn gửi đến khán giả một thông điệp mang tính hư cấu, tượng trưng cho hình ảnh xã hội hiện đại hoang tàn hay sự cô độc và ý thức đang bị già cỗi của con người hiện đại. Tuy nhiên, thông điệp đó lại được thể hiện hết sức thú vị qua những tình tiết hài hóa bi kịch.
Tóm tắt:Hai nhân vật Estragon và Vladimir thất nghiệp tìm mọi cách giết thì giờ trong khi chờ đợi một người được gọi là Gôđô, nhưng cuối cùng đợi không được; Gôđô có thể tồn tại, cũng có thể không tồn tại, kịch kết thúc, Gôđô cũng không đến. Toàn bộ tác phẩm ngoài việc đợi chờ, không có một điều gì khác phát sinh, tại sao lại đợi Gôđô, Gôđô là ai, tại sao Gôđô không đến, tất cả những điều này đều không quan trọng. Tác phẩm dùng cốt truyện không kịch như vậy là để nói lên một điều, nhân loại ngoài việc đợi chờ vô vọng hoặc ngồi đó chờ chết thì không còn con đường nào khác; con người đã không thể biết được về vận mệnh của mình, không thể suy tư về tất cả những thứ quanh mình, cho nên, ngoài việc đợi chờ đầy tiêu cực, ngoài những việc vô nghĩa như vậy, còn biết làm gì đây? Tác phẩm không có nội dung cụ thể, đợi chờ mù quáng và vô vọng chính là nội dung, ý nghĩa của nó là sự vô nghĩa của đợi chờ.
Phi lý theo quan niệm triết học, trước hết phải nói ngay rằng khái niệm về cái phi lý đã xuất hiện từ thời cổ đại. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại như Zenon và Aristote đã áp dụng phương pháp nguỵ biện cho suy lý lôgic (tức là phương pháp lập luận dựa vào giả thiết phi lý). Nhìn chung, trên phương diện lôgic học thì người ta quan niệm rằng những gì tồn tại trái với các quy tắc lôgic đều bị coi là “phi lý”.
Trong văn học phi lí được dùng để chỉ loại hình văn học phi lý có nhiệm vụ nhận thức và mô tả cái hiện thực vô nghĩa, phi lôgic, phi lý tính, trái với năng lực nhận thức của con người.
Theo từ điển văn học, kịch phi lí xuất hiện sau lần biểu diễn ra mắt ở Pari vở kịchNữ ca sĩ hói đầu (1950) của Ionetxco và “Trong khi chờ đợi Gôđô”(1925) của Becket. Đặc điểm của kịch phi lí là trình bày theo lối hài kịch nghịch dị những hình thức giả dối và vô nghĩa lí (kể cả ngôn ngữ) của sinh tồn con người. Kịch phi lí đoạn tuyệt với truyền thống, do đó nó còn được coi là phản văn học, phản kịch, phản sân khấu. Kịch phi lí không có cốt truyện, không có tính cách; con người ở đây chỉ được xác định bởi các hành vi không có liên hệ nhân quả. Ngôn ngữ của con người trong kịch phi lí bị biến thành hình thức, không còn giữ được các khuôn nghĩa của ngôn ngữ: đối thoại cũng không còn khả năng làm phương tiện giao tiếp. Từ  bỏ sự phân tích xã hội, phủ nhận năng lực của lí tính, nhưng kịch và sân khấu phi lí dù sao vẫn chứa đựng cảm hứng phản kháng thực tại tư sản, đạo đức và lương tri tư sản, tiểu thị dân. Một trong những thủ pháp chính của kịch phi lí là nghich dị, được coi là thủ pháp chứa đựng nội dung đích thực của thực tại, bản chất phi logic và vô nghĩa của thực tại. Ngọn nguồn của kịch phi lí có thể tìm thấy ở các sáng tác của Gia ri. Tiêu biểu cho kịch phi lí là các sáng tác của Ionetxco và Beckett.
Kịch phi lí là một trong những trào lưu văn học nổi bật giữa thế kỷ XX, là hiện tượng văn học độc đáo của nhân loại. Dù chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn nhưng kịch phi lí ảnh hưởng đến đời sống sân khấu và cả tâm lí xã hội con người phương Tây những năm 50 của thế kỷ XX.
Trong văn học, kịch phi lí luôn hướng đến sự tìm tòi mới lạ, phản ánh những vẫn đề về đời sống con người. Kịch phi lí ra đời trên tinh thần phá vỡ những quy tắc kịch truyền thống và dần xác lập hệ tiêu chí mới cho thể loại, đặc biệt là vấn đề nhân vật. Vậy nên trong kịch phi lí thường không có xung đột kịch và đặc trưng nhất của kịch Phi lý nói chung và “Trong khi chờ đợi Gôđô” đó là sự phân hủy tính kịch.

Xung đột trong kịch "Trong khi chờ đợi Gô đô” đó mà một chuỗi mâu thuẫn giữa cái tồn tại và cái không tồn tại. Vừa mang tính chất kịch phi lý vừa không! Xung đột kịch ở tác phẩm này liệu có tồn tại hay không? “Trong khi chờ đợi Gôđô” của Beckett mỗi nhân vật có cử động, nhưng không hành động thực sự theo ý nghĩa của kịch. Bởi lẽ đối thoại rời rạc, giống như “đối thoại của những người điếc”, còn nhân vật vừa nhúc nhắc chân tay xong lại đứng đợi, đúng như cái tên của vở kịch. Như vậy không thể có tình huống kịch và sự phát triển của hành động căng thẳng dẫn tới thắt nút, cởi nút. Để phân tích tìm hiểu xung đột kịch chúng tôi sẽ tập trung vào nghệ thuật "phân hủy tính kịch" của Beckett! Đây quả thực là một điểm độc đáo, đặc sắc mà chỉ có ở Beckett
    Tình huống đó là “sự chờ đợi mù quáng và vô vọng” của Estragon và Vladimir về một nhân vật huyền ảo đó là Gôđô trong vở kịch. Chờ đợi một người trong vô vọng của thời gian, cứ chờ đợi hết ngày này qua ngày khác và rồi một người là Gôđô lại không đến.
     Sự chờ đợi một cách mù quáng trong sự vô vọng của hai nhân vật trí thức trẻ về một nhân vật họ không rõ rằng nhân vật đó có thực hay không có, có lời hứa hay không hứa, nhưng vẫn họ vẫn chờ ẫn đợi Gôđô từng ngày.
   Tình huống kịch phi lí ở chỗ, chờ đợi một người không biết họ có tồn tại hay không. Cứ chờ đợi họ một cách vô vọng mặc dù họ không hề hứa hẹn một lời nào rằng họ sẽ đến.
   Khác với các truyện của các tác giả khác, Becket luôn làm cho người đọc, người xem một sự khác biệt rõ ràng nó không theo một mạch nhất định là có hệ quả, còn với Beckett có sự khác biệt rằng các tình huống chuyện của ông không có hệ quả kéo theo mà nó có cảm giác như đó là sự rời rạc từng sự việc, sự chờ đợi vô vọng và sự không hứa hẹn, sự chờ mong với môt người không biết họ là ai, người như thế nào, ở đâu đến mà chỉ biết chờ đợi và chờ đợi ngày qua ngày trong một thời gian không nhất định. Chờ đợi mòn mỏi, vô nghĩa!
  Mặt khác, cũng như nhiều nghệ sĩ lớn, Beckett đã gợi lên những ý kiến rất trái ngược. Ngay ở vở Trong khi chờ đợi Gôđô, có người đã nhìn thấy “cái cây – tối qua đen đủi và trơ xương hôm nay phủ đầy lá... Chỉ độc cái cây hãy còn sống, biểu tượng của sự tái sinh, của cuộc sống vinh hoàng, khởi đầu của một ngày bất định và đau khổ, nó lại dần tới buổi hoàng hôn và lại thay mới ánh trang tỏa dãi để xuống sân khấu và hai gã lang thang ở cuối mỗi hồi kịch” (pie mêlêzơ). Còn nữ diễn viên Mađơlen  Rơnô, người suốt hơn ba mươi năm độc thoại vở:Ôi! Những ngày tươi đẹp, đã nói đến “tính nhân đạo siêu thường” của Beckett. Nhà đạo diễn Mi Alan Schrâyđơ cũng nói rằng, trong tác phẩm Beckett, ta thấy “sự phủ nhận rằng”đã học ở y rất nhiều” .
   Bởi vậy, ở tác phẩm Beckett, là một kết hợp lưỡng tính, đa âm, về hình thức cũng là một kết hợp: các hình thức kịch dân gian và truyền thống (xiếc, comedia dell’arte, hề kịch, kịch câm...) với nghệ thuật hiệnđại (phim câm, phản kịch...). Sự kết hợp độc đáo này đáp ứng một thị hiếu tiềm tàng trong người xem kịch hiện đại : “Khi độ căng trở lại thành mãnh liệt, khi cái chết cà cái hài, bạo lực và nhạo báng, lo âu và giải pháp”
    Tất cả những sự đan cái trái ngược ấy tạo nên cái bi đát grôtexcơ trong tác phẩm của Beckett. Ở Trong khi chờ đợi Gôđô, cái gánh nặng đề lên vai suốt đời Lucky, khiến Lucky bước không nổi, lại là một cái va li khi rơi xuống đất vỡ, hóa ra chỉ chứa toàn cát bụi..
  Tuy nhiên, chính sự kết hợp những đối cực này ở tác phẩm Beckett đã khiến cho dư bị cuối cùng là sự tổng hợp mới: đó không hẳn là cảm giác đè bẹp con ngươi. Nó là một lời mỉa mai, nhắc nhở, nếu không phải là nổi loạn đối với sự chờ đợi vô nghĩa của con người trược mọi ông chúa trên thế giới này. Không phải chỉ qua Trong khi chờ đợi Gôđô và cá vở kịch ta mới thấy rõ điều đó. Toàn bộ tác phẩm của ông còn nói lên một sự nổi loạn : “Dựng lên một đền thờ còn dễ dàng hơn gấp mấy việc hạ vật thờ cúng xuống khỏi đó” (Vật không tên). Ông nhắc nhở chúng ta vậy. Tất nhiên, cũng như tất cả những tác phẩm mang tính chất gợi mở, đối thoại hơn là thuyết giáo, hiểu tác phẩm của Beckett theo ý nghĩa nào còn tùy thuộc vào tâm lý, trình độ, hoàn cảnh của mỗi người đọc hiện đại.
Như vậy, sự chờ đợi Gôđô là sự chờ đợi vô vọng, mù quáng. Thể hiện sự phi lí của tình huống truyện. Chờ đợi không muc đích, vô nghĩa trong vở kịch này.

Trong “150 thuật ngữ văn học”Lại Nguyên Ân cho rằng, thời gian và không gian nghệ thuật là “những phẩm chất định tính quan trọng của hình tượng nghệ thuật, đảm bảo cho việc tiếp nhận toàn vẹn thực tại nghệ thuật và tổ chức nên kết cấu của tác phẩm”. Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời gian và hiện tại, quá khứ hay tương lai. Cũng như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là mô hình thế giới độc lập có tính chủ quan và mang ý nghĩa tượng trưng của tác giả. Cơ sở chung của kết cấu kịch truyền thống là việc phân chia tác phẩm thành hồi và cảnh. Bằng cách đó, mỗi thời điểm ứng với sự kiện được miêu tả ở mỗi hồi tiếp nối với các thời điểm khác. Trong tác phẩm tự sự, nhờ có trần thuật mà hành động được khắc họa như một cái gì đó thuộc về quá khứ thì với kịch, do những chuỗi đối thoại và độc thoại, người xem có cảm giác về một thời gian hiện tại và một không gian xác thực.
Nếu như muốn tạo xung đột kịch, thời gian vở kịch chỉ diễn ra trong thời gian ngắn nhưng phải đầy kịch tính, biến cố, tập trung nhiều nhất các nhân vật, sự kiện và cũng là khoảng thời gian chót đòi hỏi tất cả đều phải được giải quyết. Không gian ở đây cũng phải vừa dài vừa rộng không kém, xung đột không chỉ xảy ra tại một nơi duy nhất mà ở nhiều địa điểm khác nhau, cách xa nhau. Ở đây, Beckett đã sử dụng nghệ thuật diễn tả không gian, thời gian khá đặc biệt. Không gian và thời gian trong kịch phi lí của Beckett cũng như ngôn ngữ trở thành một dạng thức hỗn độn, nhưng lại thể hiện một trật tự duy nhất, một trật tự của tồn tại thiết lập trên nền tảng của Hư vô. “Trong khi chờ đợi Gôđô” là vở kịch phi lí gồm hai hồi. Ở cả hai hồi, thời gian là buổi chiều muộn và không gian trên con đường ở nông thôn, trên con đường có một cái cây. Estragon xuất hiện trong tư thế ngồi trên một phiến đá, cố cởi chiếc giày. Vlardimia đi tới, hai người cùng chờ một người tên là Gôđô. Trong khi chờ đợi, cả hai cùng nói chuyện. Không bao lâu, cả hai chứng kiến cảnh Pôđô đi tới và điều khiển Lucky bằng một sợi dây buộc vào cổ. Trước khi màn đêm buông xuống, trăng lên, có cậu thanh niên xuất hiện và báo tin chiều nay Gôđô không đến nhưng chắc chắn ngày mai sẽ đến. Sau khi nghe tin xong, họ hi vọng “Ngày mai mọi chuyện sẽ tốt đẹp  hơn”, cả hai trò chuyện một lúc rồi cùng nhau đi nhưng cả hai không nhúc nhích. (Kết thúc hồi 1). Hôm sau, hồi II  được mở ra với chú thích “Ngày hôm sau. Cũng giờ ấy. Địa điểm ấy”“Cái cây có vài chiếc lá”, sự việc cũng diễn ra tương tự như trước chỉ khác một điều là  Pozo thì bi mù còn Lucky thì bị điếc nặng và Estragon thì ăn củ cải thay cho cà rốt đã hết. Kết thúc vở kịch, câu chuyện vẫn chưa được giải quyết xong, Gôđô có thể tồn tại, cũng có thể không tồn tại, tóm lại Gôđô cũng không đến. Như vậy, câu chuyện diễn ra ở một địa điểm không tên, thời gian lặp đi lặp lại và mọi việc vẫn diễn ra như thế, vẫn với những con người ấy. Tất cả tạo nên sự nhàm chán, đơn điệu đến tẻ nhạt. Thời gian, không gian ở đây được diễn tả như một sự phi lí nhưng thực ra nó lại có lí khi đối chiếu vào thực tế con người khi ấy- thời gian, không gian như ngưng đọng, chết lặng. Hai người đàn ông chờ đợi Gôđô đến đỏ con mắt đã nói rằng nếu như Gôđô không đến, họ sẽ thắt cổ tự tử. Cuối cùng, hai người đi đến quyết định nếu ngày mai Gôđô không đến thì họ vẫn cứ sẽ chờ đợi. Và các khán giả cũng chờ đợi.Toàn bộ tác phẩm ngoài việc đợi chờ, không có một điều gì khác phát sinh. Con người đã không thể biết được về vận mệnh của mình, không thể suy tư về tất cả những thứ quanh mình, cho nên, ngoài việc đợi chờ đầy tiêu cực, ngoài những việc vô nghĩa như vậy, còn biết làm gì đây?
Cuộc sống của Estragon và Vladimir bị bỏ trong không gian chật hẹp và hàng ngày lặp lặp lại việc của ngày hôm trước. Đó là cuộc sống nhàm chán vô nghĩa. Thời gian diễn ra theo quy luật bình thường: sáng, chiều, tối nhưng lại có sự phi lí. Phải chăng cuộc đời con người chỉ là những chuỗi chờ đợi mỏi mòn, vô ích, không có gì mới lạ hơn “không có cái gì trôi qua, không ai tới, không ai ra đi”Estragon phải thốt lên “Thật khủng khiếp”. Cuộc sống con người diễn ra theo chu kì như vậy thì cuộc sống này sẽ không có vận động, không có sự sống. Thế giới bị đóng kín trong một không gian chật hẹp, thời gian ngưng trệ. Tất cả tạo thành một thế giới chết và con người như đang tự đào hố chôn mình. Ý nghĩa sâu xa của “Trong khi chờ đợi Gôđô còn là một thể nghiệm về thời gian. Nó toát lên từ đề tài “Chính qua hành động đợi chờ mà chúng thể nghiệm thời gian trong hình thức tinh túy nhất của nó”. Sự thể nghiệm này gợi lên một ý nghĩa triết lí chua chát: Theo Pôzô, việc bàn về thời gian chỉ là chuyện điên rồ và ngày nào cũng giống ngày nào, vậy một ngày vẫn chưa đủ hay sao? Ta thấy ở cuối hồi 1 “Một lúc đêm xuống. Mặt trăng mọc” rồi cuối hồi II, ta lại thấy ở nơi ấy “Mặt trời lặn. Trăng mọc lên”gợi cảm giác dậm chân tại chỗ. Ý niệm về sự quay vòng, ngưng trệ của thời gian còn được gợi lên qua một vấn đề then chốt: sự phát triển tình tiết, hành động kịch là một yếu tố gợi lên tính chất động của thời gian trên sân khấu. Ở đây, nó đã bị thủ tiêu.
Trong kịch truyền thống, sân khấu là một không gian mở và thoáng. Sân khấu của Beckett là một không gian khép kín. Ba chỉ dẫn sân khấu ngắn ngủi ở đoạn mở đầu “Con đường dẫn về nông thôn, có cây. Buổi chiều” mời khán giả vào một không gian trơ trọi- không gian không được định rõ hay phân ranh giới trong bất cứ dạng thức nào. Không gian ấy khép kín đến mức, theo nhà nghiên cứu Uybocxfen, khi công diễn “Trong khi chờ đợi Gôđô tại nhà sân khấu mênh mông ở Lâu đài các Gíao hoàng để cho mấy ngàn khán giả xem, đạo diễn phải tìm cách biến nó thành bục sân khấu vòng tròn, gợi cảm giác chật hẹp. Để trang trí, chỉ có một cái cây khẳng khiu, trụi lá.  Không gian khép kín này trong diễn biến của vở kịch lại càng thể hiện rõ sự quẩn quanh, mòn mỏi, cố tìm cách giết thời gian trong sự vô thức của Vladimirvà Estragon. Ví dụ như ở hồi I, “Vladimir  đo bước quanh sân khấu, bồn chồn, chốc chốc dừng lại, dõi nhìn chân trời”…Sang hồi II, sự luẩn quẩn, vòng vo trong cái không gian chật hẹp ấy càng tăng dần về mức độ “Vlardimi đi vào, nhanh nhẹn. Y dừng lại và nhìn lên cây rất lâu. Rồi đột ngột nhanh nhẹn đảo quanh khắp sân khấu. Y dừng lại trước những chiếc giày…Lại tiếp tục đảo quanh sân khấu một cách vội vã. Y dừng lại bên hậu trường bên phải, nhìn rất lâu về phía xa, tay che ngang tầm mắt. Đi đi lại lại. Dừng lại bên phía hậu trường trái, cũng lại dõi nhìn như trước. Đi đi lại lại.”. “Y nín lặng, đứng bất động một lát, rồi lại đảo quanh khắp sân khấu một cách bồn chồn. Lại dừng lại trước gốc cây, đi đi lại lại. Chạy ra phía hậu trường trái, nhìn ra xa. Đến lúc này, Estragonvào từ hậu trường trái”. Cuối cùng lại “Đi đi lại lại bồn chồn, cuối cùng dừng lại bên hậu trường trái nhìn ra xa. Thiếu niên hôm qua vào từ phía phải.”. Những hành động ấy thực chất càng làm cho không gian thu hẹp vào hơn. Hêghen đã từng nhận định rằng “một hành động muốn diễn ra phải cần đến một thao trường rộng lớn bên ngoài”. Như vậy, không gian khép kín, chật hẹp trong “Trong khi chờ đợi Gôđô” đã cho thấy sự phân hủy trong không gian nhằm hủy diệt đi tính kịch theo ý đồ của Beckett.
Tiểu kết:“Trong khi chờ đợi Gôđôlà bước đầu của sự hủy diệt kịch tính. Trong đó, sự phân hủy không gian và thời gian nghệ thuật trong vở kịch chính là một cách khắc sâu những ám ảnh kinh hoàng của con người trước Hư vô của cuộc đời, để gióng một hồi chuông cảnh báo về sự tồn tại vô nghĩa của con người trong cái thế giới do chính họ tạo ra. Hồi chuông đó không phải là những âm vang rõ ràng và rành mạch qua những xung đột kịch tính mà là những tiếng ấp úng rời rạc của những kiếp người đang quẩn quanh, u mê, không có định hướng. Beckett muốn gửi đến khán giả một thông điệp mang tính hư cấu, tượng trưng cho hình ảnh xã hội hiện đại hoang tàn hay sự cô độc và ý thức đang bị già cỗi của con người hiện đại.
Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật.Trong tác phẩm, nhà văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều cách: Nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, lời phát âm đặc biệt của nhân vật,cho nhân vật những từ,câu mà nhân vật thích nói,kể cả từ ngoại quốc và từ địa phương,…Trong các tác phẩm tự sự,nhà văn còn thường trực tiếp miêu tả phong cách ngôn ngữ của nhân vật.
Nhắc đến vở kịch đã làm nên tên tuổi của Beckett, chúng ta không thể bỏ qua những cách tân về phương diện ngôn ngữ, thể hiện trong đối thoại và độc thoại. Trong đối thoại, mỗi nhân vật tham gia phải đảm bảo lượt lời của mình. Khi sự luân phiên, đổi vai bị phá vỡ thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả cũng như hình thức đối thoại. Những hành vi như, đưa ra những câu hỏi không đúng lúc, lối chen ngang, nói chặn, ngắt lời…đe dọa việc luân phiên lời đối thoại. Trong kịch Beckett, hình thức đối thoại đã bị phân hủy. Người nói khiếm khuyết, người nghe nghễnh ngãng, luôn luôn làm đối thoại bị tắc nghẽn. Qúa trình trao đổi đáng ngờ bởi đối thoại luôn bị đặt trong tình trạng mơ hồ, phỏng chừng và lầm lẫn.
Vladimir –Có vậy chứ!(…) Mày làm gì thế?
Estragon –Tao làm như mày, tao ngắm làn ánh sáng mờ mờ.
Vladimir –Là tao hỏi mày làm gì với đôi giày của mày
Những đối đáp lầm lẫn đã tạo ra tình trạng tẻ nhạt của lời thoại:
Vladimir -Chỉ mỗi cái cây là sống.
Estragon –Là tao hỏi loại cây gì?
Qúa trình trao đổi thông tin không rõ ràng. Chính vì vậy, các nhân vật luôn hoài nghi về lời nói của mình và của người khác. Ở đầu hồi hai, sau khi gặp lại nhau, Vladimir và Estragon như đang tham gia vào một bài tập hội thoại. Kết thúc bài tập hội thoại ấy là tiếng nói đầy lo sợ của Vladimir “Hãy nói gì đi chứ”. Câu trả lời của Estragon, dưới dạng một câu hỏi, “Chúng ta làm gì bây giờ?”, nhân vật không tìm thấy cái gì để nói tốt hơn câu đầu tiên của điệp khúc “Chúng ta chờ đợi Godot”. Kiểu nói chuyện ông chẳng bà chuộc này rất thịnh hành:
    Estragon –tao đã hỏi mày một câu.
          Vladimirr –Thế à.
          Estragon –Mày trả lời tao chưa?
          Vladimir –Cà rốt ngon chứ?
          Estragon –Ngọt.
          Vladimir –Càng hay, càng hay.(sau một lát). Mày hỏi tao cái gì?
Trong đoạn trích trên, câu trả lời không nhằm vào câu hỏi, tạo nên một đoạn đối thoại vòng vo, luẩn quẩn. Trò tung hứng hỏi –đáp đã mất cân bằng bởi những người tham gia chệnh choạng, không cìn khả năng kiểm soát được hoàn cảnh và ngôn ngữ. Những chủ đề rời rạc được đặt cạnh nhau, khiến khán giả bị đặt vào một tình thế không hiểu được cuộc đối đáp đang diễn ra như thế nào. Ở đây lời thoại đã bị mất giá, không còn là phương tiện để trao đổi thông tin, hoặc biểu lộ suy nghĩ, cảm xúc. Nhân vật trò chuyện, chỉ đơn giản vì chúng “không thể ngậm miệng được”. Những gã ma cà bồn vô cồn rồi nghề khong còn cách tiêu khiển nào hơn là nói không ngừng.
Mặt khác ngôn từ như bị làm vụn, đối thoại như rơi vào bế tắc bởi vốn từ vựng ít ỏi, vụng về của nhân vật. Sự cùng kiệt của đối thoại được thể hiện rõ trong những trao đổi nghèo nàn, những lời lẽ cụt ngủn. Lời đối đáp của cậu thiếu niên với Vladimir tiêu biểu cho kiểu ngôn ngữ này. Trong suốt màn đối thoại, cậu chỉ dùng duy nhất mệnh đề “oui” hoặc “non”. Cách trả lời máy móc khiến người đọc liên tưởng đến một kiểu trả lời tự động trong một bài tập trắc nghiệm “đúng”, “sai”. Ngôn ngữ của con người mất hết vẻ sống đồn, tự nhiên mà như bị máy móc hóa, bị bào mòn sơ cứng. “Đối lập lại với tất cả huyết mạch truyền thống của sân khấu, kịch của Beckett tôn sưng tất cả những gì mà Pierre Larthomas đã ghi vào trong mục “những bất trắc và biến dạng của ngôn ngữ” khi Beckett đã ưu tiên "sự đứt đoạn, ấp úng, ngáp, tìm từ ngữ, lầm lẫn, người đối thoại không nghe, người đối thoại không hiểu, đối thoại giả hoặc không liên kết”.
Bên cạnh đối thoại, sự cách tân ngôn ngữ còn thể hiện ở những màn độc thoại nổi tiếng của Lucky:độc thoại kì quặc, độc thoại quái gở, độc thoại bí hiểm, độc thoại bi hài…Lucky sổ ra cả tràng độc thoại bằng một thứ chất giọng không cảm xúc. Lucky: “với những hành tinh không bao giờ ngừng quay trong vũ trụ bao la mênh mông những hạt cát trên sông Seine Seine với sức mạnh của vùng Normandie tại sao chúng ta không  thể ngắn gọn để chứng minh những nguyên lí tối thiểu của sự vĩ mô kinh tế và hàng hóa cụ thể là những con sâu trong cát trắng trên bãi biển xanh và những đối tượng không mấy khi được chúng ta quan tâm của những công trình chưa được hoàn thành chúng ta không nên đi trước với môn quần vợt bất kể thời tiết trên các tảng núi đá Conar và Conard”
Lucky đã nói nói gì trong mà độc thoại này:hành tinh, hạt cát trên sông Seine, nguyên lí của kinh tế và hàng hóa, con sâu, môn quần vợt…? Sự khó hiểu trước hết xuất phát từ ngữ cảnh của màn độc thoại. Thứ nhất, diễn ngôn của Lucky xuất hiện không phải do bản thân hắn có nhu cầu bộc lộ cảm xúc hay những suy tư nội tam, mà hoàn toàn do mệnh lệnh của Pôzô. Thứ hai, ngay cả khi chưa bị câm, thì trong suốt vở kịch, đây là lần duy nhất Lucky nói lên lời. Nhưn khi lời nói cất lên thì chúng ta thấy Lucky còn kì quặc hơn cả khi hắn câm lặng! Lời nói nhất là các lời độc thoại –vốn được coi là một hình thức bộc bạch thế giới tinh thần lại không giúp người đọc hiểu hơn về nhân vật, ngược lại càng làm hắn trở nên bí hiểm. Thứ ba đoạn độc thoại xuất hiện lạ thường bởi Lucky chỉ có thể “suy nghĩ” khi đội mũ lên đầu, vì theo như Pôzô “Không đội mũ, hắn không suy nghĩ được”. Độc thoại của Lucky trở nên khó hiểu bởi nó đã vi phạm tính liên kết của diễn ngôn ở cả phương diện nội dung và hình thức. Chúng ta thấy những đề tài thay đổi liên tục , và giữa chúng không có mối liên hệ nào. Những câu văn gay cảm giác mù mịt, rối rắm bởi sự phá vỡ cấu trúc ngữ pháp. Cả tràng độc thoại khoonh hề có dấu chấm câu, tách đoạn, mà chỉ là những từ ngữ lộn xộn đặt cạnh nhau không theo trật tự. Thật khó để tách bạch trong đối thoại triền miên những cụm chủ -vị hoặc những mệnh đề hoàn chỉnh. Đằng sau những lời lẽ có vẻ dồi dào ấy là một sự trống rỗng đến mức ngớ ngẩn, nhảm nhí.
Trong khi chờ đợi Gôđô không chỉ thể hiện cách tân về ngôn ngữ thông qua đối thoại, độc thoại, mà còn là một thể nghiệm về những yếu tố vô ngôn. Quãng ngưng, im lặng, khoảng trống ngập tràn trong vở kịch. Trên trang sách, việc lĩnh hội giá trị của sự im lặng cũng như việc khám phá ngôn từ là một thách thức với độc giả. Những chỉ dẫn sân khấu bao gồm rất nhiều lời ghi chú khi thì sau một lát, khi thì im lặng, đại diện cho sự ngắt quãng của lời nói. Một yếu tố thứ ba cũng quan trọng không kém đó là những dấu chấm lửng, bổ sung vào bộ sưu tập những chỗ dừng của diễn ngôn.Việc chi nhỏ các diễn ngôn bởi những đoạn im lặng dài mang lại cảm giác về lời thoại sắp tàn. “Khi âm thanh cũng bất lực như lời”, Beckett đã cho thấy sự xâm chiếm của quãng ngưng  -“sự im lặng đó là một khoảnh khắc của ngôn ngữ”. Ở đây ngôn từ được đặt xen kẽ với im lặng, bời vì lời thoại đã bị phá vỡ, ngôn từ trở nên bất lực không diễn tả đủ những điều muốn nói.
Nhưng ngôn từ Trong khi chờ Gôđô đâu phải đi vào lãng quên bởi một thứ ngôn từ đang tan rã. Người đọc bị thôi miên chính bởi những nhân vật tàn tạ và đối thoại, độc thoại tưởng như vô nghĩa ấy lại tạo nên dư ba chính nhờ cách sử dụng ngôn ngữ đầy mới lạ ấy. Ngôn ngữ của Trong khi chờ đợi Gôđô có lúc gợi nên sắc màu hoài niệm.Đặc biệt là những lời đối đáp với những câu liên hoàn mang đậm chất nhạc, chất thơ:
          Estragon –Mọi lời nói đều vô nghĩa
          Vladimir –Giong như tiếng vỗ cánh tay.
          Estragon –Tiếng lá rụng.
          Vladimir –Tiếng cát.
          Estragon –Tiếng lá rụng.
          Im lặng.
          Vladimir –Lá cây cùng xào xạc một lúc.
          Estragon –Mỗi cái lá nói cho riêng mình nó.
                   Im lặng
                   Vladimir –Đúng hơn phải nói chúng thì thào.
                   Estragon –Chúng lẩm bẩm
                   Vladimir –Chúng xào xạc
                   Estragon –Chúng lẩm bẩm.
                   Im lặng
                   Vladimir –Chúng nói những gì?
                   Estragon –Chúng nói về cuộc đời của chúng.
                   Vladimir –Chúng ta thấy cuộc sống chúng ta đã trải qua là chưa đủ.
                   Estragon –Cần để chúng nói lên điều đó.
                   Vladimir –Chúng thấy chúng chết là chưa đủ.
                   Estragon –Qủa là chưa đủ.
                   Im lặng.
                   Vladimir –Giong như tiếng lồng chim.
                   Estragon – Tiếng lá cây.
                   Vladimir –Tiếng tro tàn.
                   Estragon –Tiếng lá cây.
Đoạn hội thoại giống như một bài thơ vô đề được chia làm 5 đoạn, với kết cấu vòng tròn:khổ đầu và khổ cuối giống hệt nhau. Phép luyến láy, điệp khúc kết hợp với bố cục cân xứng đã làm cho mẩu đối thoại trở nên thành một bài thơ, tồn tại độc lập so với những đoạn thoại trước và sau nó. Estragon và Vladimir đánh thức tất cả những sự sống mà chúng biết. Đó là những sinh thể lang thang sinh sôi trong thế giơi tự nhiên. Thời khắc ấy, hai kẻ vô gia cư đã sát lại bên nhau và lắng nghe cuộc sống bằng tâm cảm. Văn bản khẳng định sức mạnh của lời nói, không gì có thể cản trở lời nói nảy sinh: “Cần để chúng nó nói lên điều đó”.
Do sự phân hủy như vậy trong hình thức, do ý nghĩa nội dung được gợi lên: ý niệm về thời gian về cuộc đời, về ngôn từ, về hành động, và con người,… người ta đã nói nhiều tới sự phủ nhận tuyệt vọng ở kịch Beckett. Nhân vật của ông thường được gợi lên trong những mối liên hệ với những vai hề qua phong thái của gã ma cà bông Pôzô và thằng hầu Lucky. Hay nhân vật của ông là nhữngEstragonvà Vladimianhân vật trung tâm của sự chờ đợi!
Thông thường, trong kịch truyền thống, nhân vật – diễn viên sẽ mang trong mình những tính cách, cá tính riêng,… Nhưng ở đây ta bắt gặp sự phân hủy tính cách nhân vật. Nhân vật có hiện lên bằng ngôn ngữ, bằng cử động mà không vận động, không mang tính cách đặc trưng! Nhưng ẩn đằng sau nó là những nhân vật, những vai diễn vô cùng trắc ẩn, khiến người đọc tìm tỏi suy ngẫm – khiến người xem tiềm thức đón nhận.
Bốn nhân vật mang tên họ trong kịch “Trong khi chờ đợi Gôđô”, nhà nghiên cứu Mêlêzơ cho rằng “Lối dặt tên của Beckett khiến cho họ dường như đại diện chung cho nhân loại, cho thân phận con người. Estragon là tên Pháp, Vladimia: tên người dân Xlavơ, Pozo:Ý; Lucky: Anh. Tiêng tên nhân vật này gợi ý mỉa mai: Lucky trong tiếng Anh có nghĩa là “hạnh phúc”! Nhưng rồi Estragonlại có biệt hiệu là Gôgô, lại có lúc tự xưng tên là Catuylo; còn Vladimia lại đồng thời tên Điđi, và khi cậu bé tới hỏi “ông Anbe” thì lại nhận đó là mình… Tất cả nhằm biến họ thành những con người vô danh, biểu tượng cho ai cũng được, hơn là những cá thể”.
Có người nhìn thấy một ý nghĩa xã hội rõ rệt qua hai nhân vật Pôzô và Lucky. Nhà đạo diễn nổi tiếng Rôgiê  Blin kể lại rằng: “Dẫu sao thì cái thể hiện ở Vladimia và Estragon, đó là bộ móc nối của cái chế độ bóc lột, là sự áp bức xã hội, (…) Nhưng thói mẫn cảm của Beckett bị xúc phạm khi người ta nói với ông là ông đã biểu hienj một cái gì mà ông không muốn nói”.
Dẫu các nhân vật của Beckett có sắc thái phi cá thể, qua hai nhân vật trên, thoạt tiên ta có vẻ khó phân biệt với nhau, những ta vẫn thấy họ mang những nét khác nhau. Estragon – đúng như anh ta thú nhận khi liên hệ tới bộ dạng rách rưới của mình – trước đây là nhà thơ. Anh ta dường như dễ bị tổn thương bởi cuộc đời hơn Vladimia, dễ bị hành hạ vì chuyện ăn uống, dễ bị đá đít và kém xoay xở đối phó hơn. Chính vì thế, trong cặp đôi này, hình như Gôgô không thể nào rời Điđi được. Còn hai nhân vật tưởng như là đối lập Pôzô và Lucky lại hình thành một cặp đôi theo kiểu khác, không kém phần độc đáo. Có thể hiểu cho họ như hai con người tách biệt mà số phận đã buộc họ (dù bằng sợi dây ròng từ tay ông chủ đến cổ người đầy tớ đi nữa) quá chặt chẽ, tới mức dường như họ là một sự bổ sung không thể thiếu (có kẻ áp bức thì tất có kẻ nô lệ), ít nhát là cho tới ngày nay! Song cũng đã cho nhà nghiên cứu cho rằng: Phải chăng cả hai cái là một thể hiện cho thân phận của con người, bị giằng xé giữa ý muốn và lí trí, giữa bản năng và tư tưởng?
Có điều chắc chắn là với hai cặp Điđi và Gôgô, Pôzô và Lucky, Beckett không chỉ tiếp tục cặp hề truyền thống của Comedea dell arte, mà còn gợi lại hai nhân vật Đôn Kihote và Xanso Panxa của Xecvantex, làm giàu thêm cho viện bảo tàng những nhân vật cặp đôi bất tử của nghệ thuật nhân loại.
Biết bao kĩ xảo chứng tỏ người sử dụng ngôn từ miêu tả nhân vật – Xamuyen Beckett – là một người đa tài về ngôn ngữ, am hiểu cái tinh tế của tiếng Pháp và tiếng Anh biết nhường nào. Các nhân vật như những con rối dưới sự điều khiển tài ba của nhà văn, thi thố đủ tài năng: có lúc anh chàng ma cà bông rách rưới là là chàng Estragon còn nói tiếng Pháp với “điệu lơ lớ Ănglê”! Và như họ đã tự nhận, “chúng ta cư nói năng mãi chẳng cạn lời”. Song tất cả sức mạnh của ngôn từ ở đây giường như con dao hai lưỡi và bao hàm ý phản lại: nó càng nói lên tính chất vô bổ của ngôn ngữ. “Những chữ, những chữ và những chữ…”. Ta tưởng như nghe thấy tiếng than của Hamlet về sự rỗng tuếch của lời lẽ một khi con người chẳng còn có chút ít ý chí để hành động. Sự thủ tiêu ngôn từ qua một vở kịch đầy lời lẽ - đó chính là điều Beckett đã thực hiện.
Nếu như Gôđô thường được xem như là một ẩn dụ về Jesus Christ thì người ta cũng dễ dàng tìm ra những điểm tương đồng giữa Lucky và Chúa. Beckett có thể phủ nhận việc sử dụng các huyền thoại Cơ đốc trong tác phẩm của mình, nhưng Lucky dường như chứng minh điều ngược lại. Trong vở kịch, Lucky bị cột vào sợi dây thừng, một tù nhân nhục nhã, giống như Jesus là tù nhân sau khi Judar bán Chúa. Lucky mang những đồ đạc lỉnh kỉnh nặng nề của Pôzô, giống như Jesus vác cây thập giá. Lucky bị dẫn ra chợ, Chúa bị giễu trước đám đông. Nếu như Chúa bị ngã ba lần vì gánh nặng của mình, Lucky ngã rất nhiều lần vì sức nặng của đống hành lý. Câu hỏi của Estragon dành cho Pôzô về Lucky: “Tại sao anh kia không đặt đồ đạc xuống đất” (Hồi I) có thể khiến ta liên tưởng câu hỏi mà đám đông đặt ra cho Jesus: “Hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là con Thiên chúa, thì hãy xuống khỏi Thập giá xem nào!" Trả lời câu hỏi này, Pôzô nói: “Nó nghĩ rằng thấy nó tận tụy, không biết mệt là gì, ta sẽ ân hận và bỏ điều ta đã quyết định” (Hồi I). Giống như vậy, Jesus tin rằng Người phải mang gánh nặng để thức tỉnh niềm tin ở con người. Người nói với các tông đồ: “Thầy được trao quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa cha, Chúa con và Chúa Thánh thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều thầy đã truyền cho anh em. Và đây, thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
Trong vở kịch, ngoài nhân vật cậu bé chăn dê (cũng gợi lên hình ảnh Thiên chúa) và một Gôđô không bao giờ xuất hiện, hai cặp đôi Vladimir và Estragon, Pôzô và Lucky thường được phân tích như bốn hình ảnh biểu tượng. Có người căn cứ vào con số 4 để xem xét dụng ý của Beckett khi sử dụng bốn nhân vật này. Số 4 được coi là con số của lao động và sự ổn định. Nó cũng là con số của sự sáng tạo cuộc sống như là một tiến trình. Nguyên tố đầu tiên của bảng tuần hoàn hóa học là Helium có nguyên tử lượng là 4, và Carbon, nguyên tố cơ bản của đời sống hữu cơ có hóa trị 4. Một sự thể hiện đầy ý nghĩa của biểu tượng bộ bốn là sự thể hiện bốn tác giả Phúc Âm dưới dạng hình những con vật có cánh. Trong đó, Matthew, vị tông đồ nhấn mạnh lòng nhân đạo của Jesus được gán cho Didi; Mark - người viết về Jesus như một con người hành động và nhấn mạnh địa vị của Chúa được gán cho Pôzô; Lucky được so sánh với Luke, vị tông đồ miêu tả Chúa ở sự chịu đựng và là người chịu đựng gánh nặng của Chúa trên vai; Estragonđược gán cho John, vị tông đồ viết về Jesus như một con người vươn cao, người thay đổi và được thay đổi. Cũng như vậy, người ta gán bốn nhân vật này với bốn khí chất tinh thần cơ bản theo Carl Jung, trong đó Didi là u sầu (Melancholic), Pôzô là nóng nảy (Choleric), Lucky là lạc quan (Sanguine) và Gogo là lạnh lùng (Phlegmatic). Thậm chí họ được gán biểu tượng bốn nguyên tố cơ bản: Điđi là không khí, đây cũng là biểu tượng của thánh Matthew, của người chở nước trong cung Bảo Bình, mùa đông; Pôzô là lửa, với hình ảnh con sư tử trong cung Leo, mùa hè; Lucky là nguyên tố đất, mùa xuân và cung Kim ngưu; Gogo là nguyên tố nước, cung Hổ cáp, mùa thu và hình ảnh con đại bàng...
Người ta có thể gán ghép vô vàn những ý nghĩa biểu tượng cho mỗi nhân vật của Trong khi chờ Gôđô. Tuy nhiên, những ý nghĩa đó luôn được đặt trong một mối quan hệ chặt chẽ. Mối quan hệ giữa các cá nhân trong tác phẩm này dường như rất quan trọng, bởi sự tác động lẫn nhau giữa các nhân vật, khi họ cố để làm thỏa mãn sự chán ngán của người kia, chính là nền tảng của vở kịch. Sự tác động lẫn nhau giữa Vladimir làEstragonhình thành nền tảng cho chủ đề chính của câu chuyện. Quan hệ giữa các cá nhân, bao gồm những thứ liên quan đến Godot, có thể diễn tả như hình ảnh của một sợi dây kết dính giữa họ. Những ẩn dụ vào từng thời điểm là vô hình hay hữu hình, nối liền những vật thể “vô tri vô giác”, nối liền cái chết và sự sống.
Sợi dây hữu hình duy nhất xuất hiện là sợi dây thừng quấn quanh cổ Lucky mà Pôzô cầm. Cặp nhân vật này cách biệt bởi một sợi dây có chiều dài bằng một nửa chiều rộng sân khấu. Dưới sợi dây, mối quan hệ của các nhân vật này là một sự thống trị nhất quán. Chỉ dẫn sân khấu ghi: “Pô zô điều khiển Lucky bằng sợi dây thừng quấn quanh cổ hắn ta”. Lucky giống như con ngựa kéo toa xe của Pôzô trong một mối quan hệ tàn ác, hống hách. Mặc dù ở trong tình trạng khốn khổ đó, Lucky dường như không có khát vọng thay đổi. Hoặc hắn không có cảm xúc gì về tình trạng hắn phải chịu. Có lẽ, như Vladimir và Estragon, hắn không thể mường tượng cho bản thân bất cứ điều gì khác. Mối quan hệ giữa Pôzô và Lucky dĩ nhiên không dừng lại ở đấy. Ngày hôm sau, khi họ xuất hiện, sợi dây nối họ ngắn hơn. Trong điều kiện này, không rõ ai là người dẫn dắt người kia, như chỉ dẫn sân khấu viết: “Pôzô mù… Dây thừng như trước, nhưng ngắn hơn, để Pôzô có thể đi theo dễ dàng” (Hồi II). Lần đầu tiên trong kịch bản, Pôzôphụ thuộc vào sự dẫn đường của Lucky. Lucky phụ thuộc vào Pôzô cũng cùng một nguyên nhân, dù mối quan hệ này mang tính tinh thần hơn là vật chất. Độ ngắn của sợi dây cần thiết bởi Pôzô mù, nhưng cũng ảnh hưởng từ mối quan hệ của họ. Sự gần gũi của họ giờ đây khiến Pôzô khó thống trị và Lucky không còn là kẻ nô lệ hoàn toàn. Và sau khi va vàoEstragon, Lucky ngã, làm rơi mọi thứ và kéo luôn Pôzô ngã xuống. Họ nằm bất động giữa đống hành lí ngổn ngang.
Vladimir và Estragon cũng có mối quan hệ tương tự trong nhiều mặt, vì có một sự phục tùng và sự thống trị rõ ràng trong mối quan hệ giữa họ. Tuy nhiên, sự phục tùng và sự thống trị này không hoàn toàn như ở Lucky và Pôzô. Chẳng hạn như khi hai người bạn cố tìm ra một trò giết thời gian, Vladimir đề nghị hãy chơi “như Pôzô và Lucky”, trò chơi khiến họ lăng mạ nhau để tìm vui. Vladimir yêu cầu Estragon đóng vai Pôzô thống trị mình, mặc dù thực tế Vladimir là người quyết đoán hơn. Một cách khác, Vladimir và Estragon nghĩ đến việc tự kích dục, treo cổ hay làm điều gì đó khác biệt tránh sự đơn điệu trong chuỗi đợi chờ hàng ngày của họ và có thể giúp họ khiến cho thời gian trôi nhanh. Nhưng Vladimir và Estragon chưa bao giờ suy ngẫm về việc tự treo cổ trong một tình huống hiện thực, nhìn nó như một hành động có thể ngăn họ gặp Gôđô (ít nhất trong cách hiểu ông ta là một con người). Treo cổ do vậy với họ là một sự lãng trí khác, có lẽ là một tưởng tượng. Họ không thể tự tử. Đầu tiên họ nhận ra rằng cái cây duy nhất trong thế giới của họ không đủ chống đỡ sức nặng của Vladimir. Ngày thứ hai, họ không thể treo cổ vì thiếu dây thừng. Dường như Vladimir vàEstragoncoi đó là một chủ đề tranh luận. Và bản thân họ thì bị cột vào một sợi dây vô hình trói buộc với Gôđô trong một tình trạng chờ đợi bất tận và bất khả kháng.
Chúng tôi không có ý định phân tích cụ thể ý nghĩa các biểu tượng qua hình tượng các nhân vật của Trong khi chờ Gôđô. Bởi nếu làm như vậy sẽ lại rơi vào vòng xoáy vô tận của kết cấu vở kịch, tệ hơn, sẽ sa vào áp đặt. Bộ đôi Điđi - Gôgô, Pôzô - Lucky và thậm chí cả cái cây, sợi dây thừng vốn đã chồng chất những ý nghĩa ám ảnh. Và với mỗi thời điểm lịch sử khác nhau, người ta cũng có thể thêm vào cho chúng những ý nghĩa khác nhau. Điđi – Gôgô có thể là những kẻ bị bóc lột, Pôzô có thể là hình ảnh của kẻ độc tài, Gôđô có thể là Chúa cứu thế... Suy cho cùng, mỗi nhân vật là một mảnh vỡ. Mỗi mảnh vỡ có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Vô số mảnh vỡ tạo nên vô số biểu tượng, và chúng nhân gấp bội theo sự suy luận của con người cùng với thời gian.Gôđô tồn tại bên ngoài vũ trụ trong một tự do không bị kiểm soát bởi sự hạn chế của thế tục. Ông ta là sự trừu tượng tồn tại trong tĩnh lặng của hư vô. Điđi và Gôgô thiếu thốn những đặc trưng cụ thể nhưng so với điểm 0 thì họ vẫn là những hiện hữu xác thực. Họ vẫn làm gì đó, họ đợi, họ suy nghĩ, nói năng, đi lại. Những song đề hiện hữu - thiếu vắng, trừu tượng - xác thực xáo trộn trong tác phẩm, trở thành mối băn khoăn duy nhất và vĩnh viễn. Và có lẽ, đó cũng là câu hỏi về cái tôi, trong sự trầm mặc đến ghê sợ của hư vô không cùng. Trong khi chờ Gôđôcó lẽ là bi kịch được che đậy trong những hành động khôi hài của các nhân vật. Nó là bi kịch của con người trong trò chơi của định mệnh không bao giờ tìm thấy sự kết thúc
Như vậy, tính cách nhân vật trong “Trong khi chờ đợi Gôđô” quả là một điều bí ẩn mà khi càng khám phá ta lại  càng thấy nó độc đáo. Nhân vật có cử động những không vận động, nhân vật có  ngôn ngữ những lại có những dường như lại trở thành phi ngôn ngữ. Qua cách phân tích lý giải trên, chúng tôi khẳng định rằng nhân vật trong kịch “Trong khi chờ đợi Gôđô” nhìn chung họ vẫn mang tính cách, mang những đặc điểm của nhân vật kịch. Tuy nhiên, dưới ngòi bút của Beckett họ hiện hữu, sinh động! Tất cả là những bí ẩn để độc giả, khán giả cùng khám phá, thưởng thức,… Trên tất cả đó là nghệ thuật của sự phá hủy xung đột kịch – phá hủy tính kịch, để tác phẩm từ những thứ hiện hữu trở thành hư vô, những thứ tưởng trừng chỉ là hư vô lại hiện hữu sinh động.

 “Trong khi chờ đợi Gôđô” đã thực sự trở thành một tác phẩm kịch phi lý độc đáo mà chỉ ở Beckett ta mới tìm thấy được điều đó! Xung đột kịch là một chuỗi “Sự phá hủy tính Kịch”! Tất cả từ có trở thành không, huyền ảo, viển vông, mông lung, hão huyền. Nếu như ở kịch truyền thống sẽ có mở nút – cao trào – thắt nút, hay với Brêcht sự cao trào, thăng trầm liên tiếp cho đến khi mở nút – thắt nút thì đến với Beckett kịch của ông là một vòng tròn… tưởng rằng đi đến tận cùng của sự kết thúc nhưng cuối cùng nó lại trở về điểm đầu tiên! Một vòng tròn thống nhất! “Trong khi chờ đợi Gôđô” mới là bước đầu của sự hủy diệt kịch tính (theo ý nghĩa truyền thống) so với các vở sau này. “Trong khi chờ đợi Gôđô”được coi như một sự bùng nổ chỉ vì nó là vở đầu tiên, để rồi khi đã quen dần với công chúng, sân khấu sẽ tiếp nhận những hiện tượng táo bạo hơn nữa của kịch Xamuyen Beckett.

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.     Lê Huy Bắc, Giáo trình văn học Âu Mỹ thế kỷ XX – NXBĐHSPHN, 2010
2.     Đặng Anh Đào, Giáo trình Văn học phương Tây – NXB Giáo dục – 1999
3.     Đình Quang, Trong khi chờ đợi Gôđô, NXB Sân khấu, 2006
4.     Một số bài nghiên cứu trên nguồn Internet “ebook.com”


Nhật ký hoạt động nhóm
Họ tên
Công việc

Bùi Thị Thùy Linh
I.                 Khái quát + III.1Phân hủy tình huống kịch

Vi Thị Nhàn
II.     Xung đột trong kịch phi lý + III.3. Phân hủy ngôn ngữ nhân vật

Nguyễn Thị Hải Yến
III.2. Phân hủy thời gian, không gian kịch

Đỗ Thị Mơ
III.3. Phân hủy ngôn ngữ nhân vật + IV kết luận

Nguyễn Thị Thảo
III.4. Phân hủy tính cách nhân vật – Chỉnh sửa – tổng hợp bài



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét