Môn: Văn học Tây Âu – Mỹ
Giảng viên: Nguyễn Linh Chi
Xung đột kịch Trong khi chờ đợi Gôđôcủa Beckett
Thành
viên nhóm10: Ngữ Văn – K64 – Lớp tín chỉ (tiết
4-5 –thứ 3, 6):
1.
Nguyễn Thị Thảo - D
2.
Nguyễn Thị Hải Yến - D
3.
Vi Thị Nhàn - C
4.
Đỗ Thị Mơ - B
5.
Bùi Thị Thùy Linh - B
Mục lục
Samuel Barklay
Beckett (1906 –1989) là nhà văn, nhà viết kịch Ireland đoạt giải Nobel Văn học
năm 1969. Samuel Beckett sáng tác bằng tiếng Anh và tiếng Pháp.
Samuel Beckett
là con út trong một gia đình doanh nghiệp. Ông học ở nhà rồi vào học trường nội
trú ở thành phố nhỏ Enniskillen; học tiếp trường Cao đẳng ở Dublin, khoa Văn học
Hiện đại; học tiếng Pháp, tiếng Ý tại học viện Trinity tại Dublin. Tốt nghiệp,
Beckett dạy học ở Belfast, sau đó đến Paris, kết bạn và giúp đỡ nhà văn đồng
hương mắt lòa James Joyce hoàn thành tiểu thuyết Ngày giỗ Finnegan. Năm 24 tuổi
ông trở lại học viện Trinity làm giảng viên.Từ năm 1932 Beckett đã xuất bản thơ
và tiểu luận nhưng ít được chú ý. Trong thập niên 1930, để thoát khỏi không khí
ngột ngạt trong nước ông đã ra nước ngoài và đi du lịch nhiều nơi.Năm 1937
Beckett định cư ở Paris, làm quen với người bạn đời tương lai (kết hôn năm
1961) là nữ nghệ sĩ dương cầm Suzann Dumesni; trong thời kì quân Đức chiếm
đóng, ông tham gia phong trào kháng chiến.Năm 1942 Beckett cùng bạn gái chạy trốn
bọn Ghestapo đến làng Russiona ở miền Nam nước Pháp, làm công nhân nông nghiệp.
Cùng thời gian này ông viết tiểu thuyết Watt (hình thức chơi chữ: từ
"What", tên nhân vật chính, trong tiếng Anh có nghĩa là "cái
gì") nói về những gắng gỏi vô ích của một người muốn sống hợp lí trong thế
giới phi lý. Đây là tác phẩm cuối cùng của Beckett viết bằng tiếng Anh, về sau
ông sáng tác bằng tiếng Pháp, trong đó có bộ ba Molloy (1951), Malone meurt
(Malone hấp hối, 1951) và L'innommable (Không thể gọi tên, 1953) là những thử
nghiệm ngôn ngữ thể hiện những tìm tòi của nhà văn. Đề tài về tính chất phi lí
của sự tồn tại xuyên suốt toàn bộ sáng tác về sau của ông, gồm cả những vở kịch
truyền thanh và truyền hình.
Mặc dù tiểu thuyết
chiếm chỗ quan trọng trong sáng tác của Samuel Beckett nhưng làm ông nổi danh
thế giới lại là vở kịch En atttendant Godot (Đợi Gôđô) sáng tác bằng
tiếng Pháp (viết năm 1946, công diễn năm 1953, xuất bản bằng tiếng Anh năm 1954
dưới tên Waiting for Godot). Cùng với thể loại kịch hoàn toàn mới - bị tước bỏ
ý nghĩa và hành động kịch - Beckett đã đưa triết học hiện sinh chủ nghĩa lên
sân khấu và gây sự kíchđộng mạnh mẽ trong công chúng và cả giới phê bình. Lúc
này tất cả các tiểu thuyết của ông đều được theo dõi chăm chú. Fin de partie
(Tàn cuộc chơi) là vở kịch thành công lớn thứ hai của ông. Năm 1966 ra đời tiểu
thuyết cuối cùng của Beckett Comment c'est (Như điều đó).
Năm 1969 Samuel
Beckett được đề nghị tặng giải Nobel vì toàn bộ những tác phẩm văn xuôi và kịch.
Trong những năm tiếp theo ông viết các vở kịch một hồi; tự dàn dựng một số tác
phẩm của mình; năm 1978 ông in một tập thơ ngắn. Ông mất ở Paris.
“Trong khi chờ đợi Gôđô” - tác phẩm được
đánh giá là Vở kịch tiếng Anh đáng lưu ý nhất thế kỷ 20
Kịch bản nguyên gốc tiếng Pháp
được sáng tác trong thời gian 9 tháng 10 năm 1948 đến 29 tháng 1 năm 1949. Tác
phẩm được công diễn lần đầu vào 5 tháng 1 năm 1953 tại Nhà hát Babylone (Théâtre
de Babylone), Paris, Pháp.
“Trong khi chờ đợi Gôđô”là một tác phẩm tiêu biểu cho
loại kịch phi lý. Nó không có cốt truyện, cũng không có cao trào. Cũng có thể
gọi nó là bi kịch mang tính chất trào lộng. Ở đây, Beckett muốn gửi đến khán
giả một thông điệp mang tính hư cấu, tượng trưng cho hình ảnh xã hội hiện đại
hoang tàn hay sự cô độc và ý thức đang bị già cỗi của con người hiện đại. Tuy
nhiên, thông điệp đó lại được thể hiện hết sức thú vị qua những tình tiết hài
hóa bi kịch.
Tóm tắt:Hai nhân vật Estragon và
Vladimir thất nghiệp tìm mọi cách giết thì giờ trong khi chờ đợi một người được
gọi là Gôđô, nhưng cuối cùng đợi không được; Gôđô có thể tồn tại,
cũng có thể không tồn tại, kịch kết thúc, Gôđô cũng không đến. Toàn bộ tác
phẩm ngoài việc đợi chờ, không có một điều gì khác phát sinh, tại sao lại đợi Gôđô, Gôđô là ai, tại sao Gôđô không đến, tất
cả những điều này đều không quan trọng. Tác phẩm dùng cốt truyện không kịch như
vậy là để nói lên một điều, nhân loại ngoài việc đợi chờ vô vọng hoặc ngồi đó
chờ chết thì không còn con đường nào khác; con người đã không thể biết được về
vận mệnh của mình, không thể suy tư về tất cả những thứ quanh mình, cho nên,
ngoài việc đợi chờ đầy tiêu cực, ngoài những việc vô nghĩa như vậy, còn biết
làm gì đây? Tác phẩm không có nội dung cụ thể, đợi chờ mù quáng và vô vọng
chính là nội dung, ý nghĩa của nó là sự vô nghĩa của đợi chờ.
“Phi
lý” theo quan niệm triết học, trước
hết phải nói ngay rằng khái niệm về cái phi lý đã xuất hiện từ thời cổ đại. Các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại như Zenon và Aristote đã áp dụng phương pháp nguỵ
biện cho suy lý lôgic (tức là phương pháp lập luận dựa vào giả thiết phi lý).
Nhìn chung, trên phương diện lôgic học thì người ta quan niệm rằng những gì tồn
tại trái với các quy tắc lôgic đều bị coi là “phi lý”.
Trong văn học phi lí được dùng để
chỉ loại hình văn học phi lý có nhiệm vụ nhận thức và mô tả cái hiện thực vô
nghĩa, phi lôgic, phi lý tính, trái với năng lực nhận thức của con người.
Theo từ điển văn học, kịch phi lí
xuất hiện sau lần biểu diễn ra mắt ở Pari vở kịchNữ ca sĩ hói đầu (1950) của Ionetxco và “Trong khi chờ đợi Gôđô”(1925) của Becket. Đặc điểm của kịch phi lí
là trình bày theo lối hài kịch nghịch dị những hình thức giả dối và vô nghĩa lí
(kể cả ngôn ngữ) của sinh tồn con người. Kịch phi lí đoạn tuyệt với truyền thống,
do đó nó còn được coi là phản văn học, phản kịch, phản sân khấu. Kịch phi lí
không có cốt truyện, không có tính cách; con người ở đây chỉ được xác định bởi
các hành vi không có liên hệ nhân quả. Ngôn ngữ của con người trong kịch phi lí
bị biến thành hình thức, không còn giữ được các khuôn nghĩa của ngôn ngữ: đối
thoại cũng không còn khả năng làm phương tiện giao tiếp. Từ bỏ sự phân tích xã hội, phủ nhận năng lực của
lí tính, nhưng kịch và sân khấu phi lí dù sao vẫn chứa đựng cảm hứng phản kháng
thực tại tư sản, đạo đức và lương tri tư sản, tiểu thị dân. Một trong những thủ
pháp chính của kịch phi lí là nghich dị, được coi là thủ pháp chứa đựng nội
dung đích thực của thực tại, bản chất phi logic và vô nghĩa của thực tại. Ngọn
nguồn của kịch phi lí có thể tìm thấy ở các sáng tác của Gia ri. Tiêu biểu cho
kịch phi lí là các sáng tác của Ionetxco và Beckett.
Kịch phi lí là một trong những
trào lưu văn học nổi bật giữa thế kỷ XX, là hiện tượng văn học độc đáo của nhân
loại. Dù chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn nhưng kịch phi lí ảnh hưởng đến đời
sống sân khấu và cả tâm lí xã hội con người phương Tây những năm 50 của thế kỷ
XX.
Trong văn học, kịch phi lí luôn
hướng đến sự tìm tòi mới lạ, phản ánh những vẫn đề về đời sống con người. Kịch
phi lí ra đời trên tinh thần phá vỡ những quy tắc kịch truyền thống và dần xác
lập hệ tiêu chí mới cho thể loại, đặc biệt là vấn đề nhân vật. Vậy nên trong kịch
phi lí thường không có xung đột kịch và đặc trưng nhất của kịch Phi lý nói
chung và “Trong khi chờ đợi Gôđô” đó là sự phân hủy tính kịch.
Xung đột trong kịch "Trong khi chờ đợi Gô đô” đó
mà một chuỗi mâu thuẫn giữa cái tồn tại và cái không tồn tại. Vừa mang tính chất
kịch phi lý vừa không! Xung đột kịch ở tác phẩm này liệu có tồn tại hay không? “Trong khi chờ đợi Gôđô” của Beckett mỗi
nhân vật có cử động, nhưng không hành động thực sự theo ý nghĩa của kịch. Bởi lẽ
đối thoại rời rạc, giống như “đối thoại của
những người điếc”, còn nhân vật vừa nhúc nhắc chân tay xong lại đứng đợi,
đúng như cái tên của vở kịch. Như vậy không thể có tình huống kịch và sự phát
triển của hành động căng thẳng dẫn tới thắt nút, cởi nút. Để phân tích tìm hiểu
xung đột kịch chúng tôi sẽ tập trung vào nghệ thuật "phân hủy tính kịch"
của Beckett! Đây quả thực là một điểm độc đáo, đặc sắc mà chỉ có ở Beckett
Tình huống đó là “sự chờ đợi mù
quáng và vô vọng” của Estragon và Vladimir về một nhân vật huyền ảo đó là Gôđô
trong vở kịch. Chờ đợi một người trong vô vọng của thời gian, cứ chờ đợi hết
ngày này qua ngày khác và rồi một người là Gôđô lại không đến.
Sự
chờ đợi một cách mù quáng trong sự vô vọng của hai nhân vật trí thức trẻ về một
nhân vật họ không rõ rằng nhân vật đó có thực hay không có, có lời hứa hay
không hứa, nhưng vẫn họ vẫn chờ ẫn đợi Gôđô từng ngày.
Tình
huống kịch phi lí ở chỗ, chờ đợi một người không biết họ có tồn tại hay không.
Cứ chờ đợi họ một cách vô vọng mặc dù họ không hề hứa hẹn một lời nào rằng họ sẽ
đến.
Khác với các truyện của các tác giả khác,
Becket luôn làm cho người đọc, người xem một sự khác biệt rõ ràng nó không theo
một mạch nhất định là có hệ quả, còn với Beckett có sự khác biệt rằng các tình
huống chuyện của ông không có hệ quả kéo theo mà nó có cảm giác như đó là sự rời
rạc từng sự việc, sự chờ đợi vô vọng và sự không hứa hẹn, sự chờ mong với môt
người không biết họ là ai, người như thế nào, ở đâu đến mà chỉ biết chờ đợi và
chờ đợi ngày qua ngày trong một thời gian không nhất định. Chờ đợi mòn mỏi, vô
nghĩa!
Mặt
khác, cũng như nhiều nghệ sĩ lớn, Beckett đã gợi lên những ý kiến rất trái ngược.
Ngay ở vở Trong khi chờ đợi Gôđô, có người đã nhìn thấy “cái cây – tối qua đen đủi và trơ xương hôm nay phủ đầy lá... Chỉ độc
cái cây hãy còn sống, biểu tượng của sự tái sinh, của cuộc sống vinh hoàng, khởi
đầu của một ngày bất định và đau khổ, nó lại dần tới buổi hoàng hôn và lại thay
mới ánh trang tỏa dãi để xuống sân khấu và hai gã lang thang ở cuối mỗi hồi kịch”
(pie mêlêzơ). Còn nữ diễn viên Mađơlen
Rơnô, người suốt hơn ba mươi năm độc thoại vở:Ôi! Những ngày tươi đẹp, đã nói đến “tính nhân đạo siêu thường” của
Beckett. Nhà đạo diễn Mi Alan Schrâyđơ cũng nói rằng, trong tác phẩm Beckett,
ta thấy “sự phủ nhận rằng”đã học ở y rất nhiều” .
Bởi
vậy, ở tác phẩm Beckett, là một kết hợp lưỡng tính, đa âm, về hình thức cũng là
một kết hợp: các hình thức kịch dân gian và truyền thống (xiếc, comedia
dell’arte, hề kịch, kịch câm...) với nghệ thuật hiệnđại (phim câm, phản kịch...).
Sự kết hợp độc đáo này đáp ứng một thị hiếu tiềm tàng trong người xem kịch hiện
đại : “Khi độ căng trở lại thành mãnh liệt,
khi cái chết cà cái hài, bạo lực và nhạo báng, lo âu và giải pháp”
Tất
cả những sự đan cái trái ngược ấy tạo nên cái bi đát grôtexcơ trong tác phẩm của
Beckett. Ở Trong khi chờ đợi Gôđô,
cái gánh nặng đề lên vai suốt đời Lucky, khiến Lucky bước không nổi, lại là một
cái va li khi rơi xuống đất vỡ, hóa ra chỉ chứa toàn cát bụi..
Tuy
nhiên, chính sự kết hợp những đối cực này ở tác phẩm Beckett đã khiến cho dư bị
cuối cùng là sự tổng hợp mới: đó không hẳn là cảm giác đè bẹp con ngươi. Nó là
một lời mỉa mai, nhắc nhở, nếu không phải là nổi loạn đối với sự chờ đợi vô
nghĩa của con người trược mọi ông chúa trên thế giới này. Không phải chỉ qua
Trong khi chờ đợi Gôđô và cá vở kịch ta mới thấy rõ điều đó. Toàn bộ tác phẩm của
ông còn nói lên một sự nổi loạn : “Dựng
lên một đền thờ còn dễ dàng hơn gấp mấy việc hạ vật thờ cúng xuống khỏi đó”
(Vật không tên). Ông nhắc nhở chúng ta vậy. Tất nhiên, cũng như tất cả những
tác phẩm mang tính chất gợi mở, đối thoại hơn là thuyết giáo, hiểu tác phẩm của
Beckett theo ý nghĩa nào còn tùy thuộc vào tâm lý, trình độ, hoàn cảnh của mỗi
người đọc hiện đại.
Như vậy, sự chờ đợi Gôđô là sự chờ đợi vô vọng, mù quáng. Thể hiện sự phi lí của
tình huống truyện. Chờ đợi không muc đích, vô nghĩa trong vở kịch này.
Trong “150 thuật ngữ
văn học”Lại Nguyên Ân cho rằng, thời gian và không gian nghệ thuật là “những phẩm chất định tính quan trọng của
hình tượng nghệ thuật, đảm bảo cho việc tiếp nhận toàn vẹn thực tại nghệ thuật
và tổ chức nên kết cấu của tác phẩm”. Thời gian nghệ thuật là thời gian mà
ta thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của của
nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời gian và hiện tại, quá khứ hay
tương lai. Cũng như thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật là hình thức tồn
tại của thế giới nghệ thuật, là mô hình thế giới độc lập có tính chủ quan và
mang ý nghĩa tượng trưng của tác giả. Cơ sở chung của kết cấu kịch truyền thống
là việc phân chia tác phẩm thành hồi và cảnh. Bằng cách đó, mỗi thời điểm ứng với
sự kiện được miêu tả ở mỗi hồi tiếp nối với các thời điểm khác. Trong tác phẩm
tự sự, nhờ có trần thuật mà hành động được khắc họa như một cái gì đó thuộc về
quá khứ thì với kịch, do những chuỗi đối thoại và độc thoại, người xem có cảm
giác về một thời gian hiện tại và một không gian xác thực.
Nếu như muốn tạo xung đột kịch, thời gian vở kịch chỉ diễn
ra trong thời gian ngắn nhưng phải đầy kịch tính, biến cố, tập trung nhiều nhất
các nhân vật, sự kiện và cũng là khoảng thời gian chót đòi hỏi tất cả đều phải
được giải quyết. Không gian ở đây cũng phải vừa dài vừa rộng không kém, xung đột
không chỉ xảy ra tại một nơi duy nhất mà ở nhiều địa điểm khác nhau, cách xa
nhau. Ở đây, Beckett đã sử dụng nghệ thuật diễn tả không gian, thời gian khá đặc
biệt. Không gian và thời gian trong kịch phi lí của Beckett cũng như ngôn ngữ
trở thành một dạng thức hỗn độn, nhưng lại thể hiện một trật tự duy nhất, một
trật tự của tồn tại thiết lập trên nền tảng của Hư vô. “Trong khi chờ đợi Gôđô” là vở
kịch phi lí gồm hai hồi. Ở cả hai hồi, thời gian là buổi chiều muộn và không
gian trên con đường ở nông thôn, trên con đường có một cái cây. Estragon xuất
hiện trong tư thế ngồi trên một phiến đá, cố cởi chiếc giày. Vlardimia đi tới,
hai người cùng chờ một người tên là Gôđô. Trong khi chờ đợi, cả hai cùng nói
chuyện. Không bao lâu, cả hai chứng kiến cảnh Pôđô đi tới và điều khiển Lucky bằng
một sợi dây buộc vào cổ. Trước khi màn đêm buông xuống, trăng lên, có cậu thanh
niên xuất hiện và báo tin chiều nay Gôđô không đến nhưng chắc chắn ngày mai sẽ
đến. Sau khi nghe tin xong, họ hi vọng “Ngày
mai mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn”, cả
hai trò chuyện một lúc rồi cùng nhau đi nhưng cả hai không nhúc nhích. (Kết
thúc hồi 1). Hôm sau, hồi II được mở ra
với chú thích “Ngày hôm sau. Cũng giờ ấy.
Địa điểm ấy” và “Cái cây có vài chiếc
lá”, sự việc cũng diễn ra tương tự như trước chỉ khác một điều là Pozo thì bi mù còn Lucky thì bị điếc nặng và Estragon
thì ăn củ cải thay cho cà rốt đã hết. Kết thúc vở kịch, câu chuyện vẫn chưa được
giải quyết xong, Gôđô có thể tồn tại, cũng có thể không tồn tại, tóm lại Gôđô cũng không đến. Như vậy, câu chuyện diễn ra ở một địa điểm
không tên, thời gian lặp đi lặp lại và mọi việc vẫn diễn ra như thế, vẫn với những
con người ấy. Tất cả tạo nên sự nhàm chán, đơn điệu đến tẻ nhạt. Thời gian,
không gian ở đây được diễn tả như một sự phi lí nhưng thực ra nó lại có lí khi
đối chiếu vào thực tế con người khi ấy- thời gian, không gian như ngưng đọng,
chết lặng. Hai người đàn ông chờ đợi Gôđô đến đỏ
con mắt đã nói rằng nếu như Gôđô không
đến, họ sẽ thắt cổ tự tử. Cuối cùng, hai người đi đến quyết định nếu ngày mai Gôđô không đến thì họ vẫn cứ sẽ chờ đợi. Và các khán giả cũng
chờ đợi.Toàn bộ tác phẩm ngoài việc đợi chờ, không có một điều gì khác phát
sinh. Con người đã không thể biết được về vận mệnh của mình, không thể suy tư về
tất cả những thứ quanh mình, cho nên, ngoài việc đợi chờ đầy tiêu cực, ngoài những
việc vô nghĩa như vậy, còn biết làm gì đây?
Cuộc sống của Estragon và Vladimir bị bỏ trong không gian chật hẹp và hàng ngày
lặp lặp lại việc của ngày hôm trước. Đó là cuộc sống nhàm chán vô nghĩa. Thời
gian diễn ra theo quy luật bình thường: sáng, chiều, tối nhưng lại có sự phi
lí. Phải chăng cuộc đời con người chỉ là những chuỗi chờ đợi mỏi mòn, vô ích,
không có gì mới lạ hơn “không có cái gì
trôi qua, không ai tới, không ai ra đi” và Estragon phải thốt lên “Thật khủng khiếp”. Cuộc sống con người diễn ra theo chu kì như vậy
thì cuộc sống này sẽ không có vận động, không có sự sống. Thế giới bị đóng kín
trong một không gian chật hẹp, thời gian ngưng trệ. Tất cả tạo thành một thế giới
chết và con người như đang tự đào hố chôn mình. Ý nghĩa sâu xa của “Trong khi chờ đợi Gôđô” còn là một thể nghiệm về thời gian. Nó toát lên từ đề
tài “Chính qua hành động đợi chờ mà chúng
thể nghiệm thời gian trong hình thức tinh túy nhất của nó”. Sự thể nghiệm
này gợi lên một ý nghĩa triết lí chua chát: Theo Pôzô, việc bàn về thời gian chỉ
là chuyện điên rồ và ngày nào cũng giống ngày nào, vậy một ngày vẫn chưa đủ hay
sao? Ta thấy ở cuối hồi 1 “Một lúc đêm xuống.
Mặt trăng mọc” rồi cuối hồi II, ta lại thấy ở nơi ấy “Mặt trời lặn. Trăng mọc lên”gợi cảm giác dậm chân tại chỗ. Ý niệm
về sự quay vòng, ngưng trệ của thời gian còn được gợi lên qua một vấn đề then
chốt: sự phát triển tình tiết, hành động kịch là một yếu tố gợi lên tính chất động
của thời gian trên sân khấu. Ở đây, nó đã bị thủ tiêu.
Trong kịch truyền thống, sân khấu là một không gian mở và
thoáng. Sân khấu của Beckett là một không gian khép kín. Ba chỉ dẫn sân khấu ngắn
ngủi ở đoạn mở đầu “Con đường dẫn về nông
thôn, có cây. Buổi chiều” mời khán giả vào một không gian trơ trọi- không
gian không được định rõ hay phân ranh giới trong bất cứ dạng thức nào. Không
gian ấy khép kín đến mức, theo nhà nghiên cứu Uybocxfen, khi công diễn “Trong khi chờ đợi Gôđô” tại nhà sân khấu mênh mông ở Lâu đài các Gíao hoàng để
cho mấy ngàn khán giả xem, đạo diễn phải tìm cách biến nó thành bục sân khấu
vòng tròn, gợi cảm giác chật hẹp. Để trang trí, chỉ có một cái cây khẳng khiu,
trụi lá. Không gian khép kín này trong
diễn biến của vở kịch lại càng thể hiện rõ sự quẩn quanh, mòn mỏi, cố tìm cách
giết thời gian trong sự vô thức của Vladimirvà Estragon. Ví dụ như ở hồi I, “Vladimir đo bước
quanh sân khấu, bồn chồn, chốc chốc dừng lại, dõi nhìn chân trời”…Sang hồi II, sự luẩn quẩn, vòng vo trong cái
không gian chật hẹp ấy càng tăng dần về mức độ “Vlardimi đi vào, nhanh nhẹn. Y dừng lại và nhìn lên cây rất lâu. Rồi đột
ngột nhanh nhẹn đảo quanh khắp sân khấu. Y dừng lại trước những chiếc giày…Lại
tiếp tục đảo quanh sân khấu một cách vội vã. Y dừng lại bên hậu trường bên phải,
nhìn rất lâu về phía xa, tay che ngang tầm mắt. Đi đi lại lại. Dừng lại bên
phía hậu trường trái, cũng lại dõi nhìn như trước. Đi đi lại lại.”. “Y nín lặng,
đứng bất động một lát, rồi lại đảo quanh khắp sân khấu một cách bồn chồn. Lại dừng
lại trước gốc cây, đi đi lại lại. Chạy ra phía hậu trường trái, nhìn ra xa. Đến
lúc này, Estragonvào từ hậu trường trái”. Cuối cùng lại “Đi đi lại lại bồn chồn, cuối cùng dừng lại
bên hậu trường trái nhìn ra xa. Thiếu niên hôm qua vào từ phía phải.”. Những
hành động ấy thực chất càng làm cho không gian thu hẹp vào hơn. Hêghen đã từng
nhận định rằng “một hành động muốn diễn
ra phải cần đến một thao trường rộng lớn bên ngoài”. Như vậy, không gian
khép kín, chật hẹp trong “Trong khi chờ đợi
Gôđô” đã cho thấy sự phân hủy trong không gian nhằm hủy diệt đi tính kịch
theo ý đồ của Beckett.
Tiểu kết:“Trong khi chờ đợi Gôđô” là bước đầu của sự hủy diệt kịch tính. Trong
đó, sự phân hủy không gian và thời gian nghệ thuật trong vở kịch chính là một
cách khắc sâu những ám ảnh kinh hoàng của con người trước Hư vô của cuộc đời, để gióng một hồi chuông cảnh báo về sự tồn tại
vô nghĩa của con người trong cái thế giới do chính họ tạo ra. Hồi chuông đó
không phải là những âm vang rõ ràng và rành mạch qua những xung đột kịch tính
mà là những tiếng ấp úng rời rạc của những kiếp người đang quẩn quanh, u mê,
không có định hướng. Beckett muốn gửi đến khán giả một thông điệp mang tính hư
cấu, tượng trưng cho hình ảnh xã hội hiện đại hoang tàn hay sự cô độc và ý thức
đang bị già cỗi của con người hiện đại.
Ngôn ngữ nhân vật là một trong các phương tiện
quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân vật.Trong
tác phẩm, nhà văn có thể cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều cách: Nhấn mạnh
cách đặt câu, ghép từ, lời phát âm đặc biệt của nhân vật,cho nhân vật những từ,câu
mà nhân vật thích nói,kể cả từ ngoại quốc và từ địa phương,…Trong các tác phẩm
tự sự,nhà văn còn thường trực tiếp miêu tả phong cách ngôn ngữ của nhân vật.
Nhắc đến vở kịch đã làm nên tên tuổi của
Beckett, chúng ta không thể bỏ qua những cách tân về phương diện ngôn ngữ, thể
hiện trong đối thoại và độc thoại. Trong đối thoại, mỗi nhân vật tham gia phải
đảm bảo lượt lời của mình. Khi sự luân phiên, đổi vai bị phá vỡ thì sẽ ảnh hưởng
đến hiệu quả cũng như hình thức đối thoại. Những hành vi như, đưa ra những câu
hỏi không đúng lúc, lối chen ngang, nói chặn, ngắt lời…đe dọa việc luân phiên lời
đối thoại. Trong kịch Beckett, hình thức đối thoại đã bị phân hủy. Người nói
khiếm khuyết, người nghe nghễnh ngãng, luôn luôn làm đối thoại bị tắc nghẽn.
Qúa trình trao đổi đáng ngờ bởi đối thoại luôn bị đặt trong tình trạng mơ hồ,
phỏng chừng và lầm lẫn.
Vladimir –Có vậy chứ!(…) Mày làm gì thế?
Estragon –Tao làm như mày, tao ngắm làn ánh sáng mờ mờ.
Vladimir –Là tao hỏi mày làm gì với đôi giày của mày
Những đối đáp lầm lẫn đã tạo ra tình trạng tẻ
nhạt của lời thoại:
Vladimir -Chỉ mỗi cái cây là sống.
Estragon –Là tao hỏi loại cây gì?
Qúa trình trao đổi thông tin không rõ ràng.
Chính vì vậy, các nhân vật luôn hoài nghi về lời nói của mình và của người
khác. Ở đầu hồi hai, sau khi gặp lại nhau, Vladimir và Estragon như đang tham
gia vào một bài tập hội thoại. Kết thúc bài tập hội thoại ấy là tiếng nói đầy
lo sợ của Vladimir “Hãy nói gì đi chứ”. Câu trả lời của Estragon, dưới dạng một
câu hỏi, “Chúng ta làm gì bây giờ?”, nhân vật không tìm thấy cái gì để nói tốt
hơn câu đầu tiên của điệp khúc “Chúng ta chờ đợi Godot”. Kiểu nói chuyện ông chẳng
bà chuộc này rất thịnh hành:
Estragon –tao đã hỏi mày một câu.
Vladimirr –Thế à.
Estragon –Mày trả lời tao
chưa?
Vladimir –Cà rốt ngon chứ?
Estragon
–Ngọt.
Vladimir
–Càng hay, càng hay.(sau một lát). Mày hỏi tao cái gì?
Trong đoạn trích trên,
câu trả lời không nhằm vào câu hỏi, tạo nên một đoạn đối thoại vòng vo, luẩn quẩn.
Trò tung hứng hỏi –đáp đã mất cân bằng bởi những người tham gia chệnh choạng,
không cìn khả năng kiểm soát được hoàn cảnh và ngôn ngữ. Những chủ đề rời rạc
được đặt cạnh nhau, khiến khán giả bị đặt vào một tình thế không hiểu được cuộc
đối đáp đang diễn ra như thế nào. Ở đây lời thoại đã bị mất giá, không còn là
phương tiện để trao đổi thông tin, hoặc biểu lộ suy nghĩ, cảm xúc. Nhân vật trò
chuyện, chỉ đơn giản vì chúng “không thể
ngậm miệng được”. Những gã ma cà bồn vô cồn rồi nghề khong còn cách tiêu
khiển nào hơn là nói không ngừng.
Mặt khác ngôn từ như bị
làm vụn, đối thoại như rơi vào bế tắc bởi vốn từ vựng ít ỏi, vụng về của nhân vật.
Sự cùng kiệt của đối thoại được thể hiện rõ trong những trao đổi nghèo nàn, những
lời lẽ cụt ngủn. Lời đối đáp của cậu thiếu niên với Vladimir tiêu biểu cho kiểu
ngôn ngữ này. Trong suốt màn đối thoại, cậu chỉ dùng duy nhất mệnh đề “oui” hoặc
“non”. Cách trả lời máy móc khiến người đọc liên tưởng đến một kiểu trả lời tự
động trong một bài tập trắc nghiệm “đúng”, “sai”. Ngôn ngữ của con người mất hết
vẻ sống đồn, tự nhiên mà như bị máy móc hóa, bị bào mòn sơ cứng. “Đối lập lại với
tất cả huyết mạch truyền thống của sân khấu, kịch của Beckett tôn sưng tất cả
những gì mà Pierre Larthomas đã ghi vào trong mục “những bất trắc và biến dạng của ngôn ngữ” khi Beckett đã ưu tiên "sự đứt đoạn, ấp úng, ngáp, tìm từ ngữ,
lầm lẫn, người đối thoại không nghe, người đối thoại không hiểu, đối thoại giả
hoặc không liên kết”.
Bên cạnh đối thoại, sự
cách tân ngôn ngữ còn thể hiện ở những màn độc thoại nổi tiếng của Lucky:độc
thoại kì quặc, độc thoại quái gở, độc thoại bí hiểm, độc thoại bi hài…Lucky sổ ra cả tràng độc thoại bằng một thứ chất giọng không
cảm xúc. Lucky: “với những hành tinh không
bao giờ ngừng quay trong vũ trụ bao la mênh mông những hạt cát trên sông Seine
Seine với sức mạnh của vùng Normandie tại sao chúng ta không thể ngắn gọn để chứng minh những nguyên lí tối
thiểu của sự vĩ mô kinh tế và hàng hóa cụ thể là những con sâu trong cát trắng
trên bãi biển xanh và những đối tượng không mấy khi được chúng ta quan tâm của
những công trình chưa được hoàn thành chúng ta không nên đi trước với môn quần
vợt bất kể thời tiết trên các tảng núi đá Conar và Conard”
Lucky đã nói nói gì trong mà độc thoại
này:hành tinh, hạt cát trên sông Seine, nguyên lí của kinh tế và hàng hóa, con
sâu, môn quần vợt…? Sự khó hiểu trước hết xuất phát từ ngữ cảnh của màn độc thoại.
Thứ nhất, diễn ngôn của Lucky xuất hiện không phải do bản thân hắn có nhu cầu bộc
lộ cảm xúc hay những suy tư nội tam, mà hoàn toàn do mệnh lệnh của Pôzô. Thứ
hai, ngay cả khi chưa bị câm, thì trong suốt vở kịch, đây là lần duy nhất Lucky
nói lên lời. Nhưn khi lời nói cất lên thì chúng ta thấy Lucky còn kì quặc hơn cả
khi hắn câm lặng! Lời nói nhất là các lời độc thoại –vốn được coi là một hình
thức bộc bạch thế giới tinh thần lại không giúp người đọc hiểu hơn về nhân vật,
ngược lại càng làm hắn trở nên bí hiểm. Thứ ba đoạn độc thoại xuất hiện lạ thường
bởi Lucky chỉ có thể “suy nghĩ” khi đội mũ lên đầu, vì theo như Pôzô “Không đội
mũ, hắn không suy nghĩ được”. Độc thoại của Lucky trở nên khó hiểu bởi nó đã vi
phạm tính liên kết của diễn ngôn ở cả phương diện nội dung và hình thức. Chúng
ta thấy những đề tài thay đổi liên tục , và giữa chúng không có mối liên hệ
nào. Những câu văn gay cảm giác mù mịt, rối rắm bởi sự phá vỡ cấu trúc ngữ
pháp. Cả tràng độc thoại khoonh hề có dấu chấm câu, tách đoạn, mà chỉ là những
từ ngữ lộn xộn đặt cạnh nhau không theo trật tự. Thật khó để tách bạch trong đối
thoại triền miên những cụm chủ -vị hoặc những mệnh đề hoàn chỉnh. Đằng sau những
lời lẽ có vẻ dồi dào ấy là một sự trống rỗng đến mức ngớ ngẩn, nhảm nhí.
Trong khi chờ đợi Gôđô không chỉ thể hiện cách tân về ngôn ngữ
thông qua đối thoại, độc thoại, mà còn là một thể nghiệm về những yếu tố vô
ngôn. Quãng ngưng, im lặng, khoảng trống ngập tràn trong vở kịch. Trên trang
sách, việc lĩnh hội giá trị của sự im lặng cũng như việc khám phá ngôn từ là một
thách thức với độc giả. Những chỉ dẫn sân khấu bao gồm rất nhiều lời ghi chú
khi thì sau một lát, khi thì im lặng, đại diện cho sự ngắt quãng của
lời nói. Một yếu tố thứ ba cũng quan trọng không kém đó là những dấu chấm lửng,
bổ sung vào bộ sưu tập những chỗ dừng của diễn ngôn.Việc chi nhỏ các diễn ngôn
bởi những đoạn im lặng dài mang lại cảm giác về lời thoại sắp tàn. “Khi âm thanh cũng bất lực như lời”,
Beckett đã cho thấy sự xâm chiếm của quãng ngưng -“sự im
lặng đó là một khoảnh khắc của ngôn ngữ”. Ở đây ngôn từ được đặt xen kẽ với
im lặng, bời vì lời thoại đã bị phá vỡ, ngôn từ trở nên bất lực không diễn tả đủ
những điều muốn nói.
Nhưng ngôn từ Trong khi chờ Gôđô đâu phải đi
vào lãng quên bởi một thứ ngôn từ đang tan rã. Người đọc bị thôi miên chính bởi
những nhân vật tàn tạ và đối thoại, độc thoại tưởng như vô nghĩa ấy lại tạo nên
dư ba chính nhờ cách sử dụng ngôn ngữ đầy mới lạ ấy. Ngôn ngữ của Trong khi chờ
đợi Gôđô có lúc gợi nên sắc màu hoài niệm.Đặc biệt là những lời đối đáp với những
câu liên hoàn mang đậm chất nhạc, chất thơ:
Estragon –Mọi lời nói đều vô nghĩa
Vladimir –Giong như tiếng
vỗ cánh tay.
Estragon –Tiếng lá rụng.
Vladimir –Tiếng cát.
Estragon –Tiếng lá rụng.
Im lặng.
Vladimir –Lá cây cùng xào
xạc một lúc.
Estragon –Mỗi cái lá nói
cho riêng mình nó.
Im lặng
Vladimir –Đúng
hơn phải nói chúng thì thào.
Estragon –Chúng
lẩm bẩm
Vladimir –Chúng
xào xạc
Estragon –Chúng
lẩm bẩm.
Im lặng
Vladimir –Chúng
nói những gì?
Estragon –Chúng
nói về cuộc đời của chúng.
Vladimir –Chúng
ta thấy cuộc sống chúng ta đã trải qua là chưa đủ.
Estragon –Cần để
chúng nói lên điều đó.
Vladimir –Chúng
thấy chúng chết là chưa đủ.
Estragon –Qủa là chưa đủ.
Im lặng.
Vladimir –Giong
như tiếng lồng chim.
Estragon – Tiếng
lá cây.
Vladimir –Tiếng
tro tàn.
Estragon –Tiếng
lá cây.
Đoạn hội thoại giống như một bài thơ vô đề được
chia làm 5 đoạn, với kết cấu vòng tròn:khổ đầu và khổ cuối giống hệt nhau. Phép
luyến láy, điệp khúc kết hợp với bố cục cân xứng đã làm cho mẩu đối thoại trở
nên thành một bài thơ, tồn tại độc lập so với những đoạn thoại trước và sau nó.
Estragon và Vladimir đánh thức tất cả những sự sống mà chúng biết. Đó là những
sinh thể lang thang sinh sôi trong thế giơi tự nhiên. Thời khắc ấy, hai kẻ vô
gia cư đã sát lại bên nhau và lắng nghe cuộc sống bằng tâm cảm. Văn bản khẳng định
sức mạnh của lời nói, không gì có thể cản trở lời nói nảy sinh: “Cần để chúng nó nói lên điều đó”.
Do sự phân hủy như vậy trong hình thức, do ý
nghĩa nội dung được gợi lên: ý niệm về thời gian về cuộc đời, về ngôn từ, về
hành động, và con người,… người ta đã nói nhiều tới sự phủ nhận tuyệt vọng ở kịch
Beckett. Nhân vật của ông thường được gợi lên trong những mối liên hệ với những
vai hề qua phong thái của gã ma cà bông Pôzô và thằng hầu Lucky. Hay nhân vật của
ông là nhữngEstragonvà Vladimianhân vật trung tâm của
sự chờ đợi!
Thông thường, trong kịch truyền thống, nhân vật
– diễn viên sẽ mang trong mình những tính cách, cá tính riêng,… Nhưng ở đây ta
bắt gặp sự phân hủy tính cách nhân vật. Nhân vật có hiện lên bằng ngôn
ngữ, bằng cử động mà không vận động, không mang tính cách đặc trưng! Nhưng ẩn đằng
sau nó là những nhân vật, những vai diễn vô cùng trắc ẩn, khiến người đọc tìm tỏi
suy ngẫm – khiến người xem tiềm thức đón nhận.
Bốn nhân vật mang tên họ trong kịch
“Trong khi chờ đợi Gôđô”, nhà nghiên
cứu Mêlêzơ cho rằng “Lối dặt tên của
Beckett khiến cho họ dường như đại diện chung cho nhân loại, cho thân phận con
người. Estragon
là tên Pháp, Vladimia: tên người dân Xlavơ,
Pozo:Ý; Lucky: Anh. Tiêng tên nhân vật này gợi ý mỉa mai: Lucky trong tiếng Anh
có nghĩa là “hạnh phúc”! Nhưng rồi Estragonlại có biệt hiệu là Gôgô, lại có
lúc tự xưng tên là Catuylo; còn Vladimia lại đồng thời tên Điđi, và khi cậu bé
tới hỏi “ông Anbe” thì lại nhận đó là mình… Tất cả nhằm biến họ thành những con
người vô danh, biểu tượng cho ai cũng được, hơn là những cá thể”.
Có người
nhìn thấy một ý nghĩa xã hội rõ rệt qua hai nhân vật Pôzô và Lucky. Nhà đạo diễn
nổi tiếng Rôgiê Blin kể lại rằng: “Dẫu sao thì cái thể hiện ở Vladimia và Estragon, đó là bộ
móc nối của cái chế độ bóc lột, là sự áp bức xã hội, (…) Nhưng thói mẫn cảm của
Beckett bị xúc phạm khi người ta nói với ông là ông đã biểu hienj một cái gì mà
ông không muốn nói”.
Dẫu các
nhân vật của Beckett có sắc thái phi cá thể, qua hai nhân vật trên, thoạt tiên
ta có vẻ khó phân biệt với nhau, những ta vẫn thấy họ mang những nét khác nhau.
Estragon – đúng như anh ta
thú nhận khi liên hệ tới bộ dạng rách rưới của mình – trước đây là nhà thơ. Anh
ta dường như dễ bị tổn thương bởi cuộc đời hơn Vladimia, dễ bị hành hạ vì chuyện
ăn uống, dễ bị đá đít và kém xoay xở đối phó hơn. Chính vì thế, trong cặp đôi
này, hình như Gôgô không thể nào rời Điđi được. Còn hai nhân vật tưởng như là đối
lập Pôzô và Lucky lại hình thành một cặp đôi theo kiểu khác, không kém phần độc
đáo. Có thể hiểu cho họ như hai con người tách biệt mà số phận đã buộc họ (dù bằng
sợi dây ròng từ tay ông chủ đến cổ người đầy tớ đi nữa) quá chặt chẽ, tới mức
dường như họ là một sự bổ sung không thể thiếu (có kẻ áp bức thì tất có kẻ nô lệ),
ít nhát là cho tới ngày nay! Song cũng đã cho nhà nghiên cứu cho rằng: Phải chăng cả hai cái là một thể hiện cho
thân phận của con người, bị giằng xé giữa ý muốn và lí trí, giữa bản năng và tư
tưởng?
Có điều
chắc chắn là với hai cặp Điđi và Gôgô, Pôzô và Lucky, Beckett không chỉ tiếp tục
cặp hề truyền thống của Comedea dell arte,
mà còn gợi lại hai nhân vật Đôn Kihote và Xanso Panxa của Xecvantex, làm giàu
thêm cho viện bảo tàng những nhân vật cặp đôi bất tử của nghệ thuật nhân loại.
Biết bao
kĩ xảo chứng tỏ người sử dụng ngôn từ miêu tả nhân vật – Xamuyen Beckett – là một
người đa tài về ngôn ngữ, am hiểu cái tinh tế của tiếng Pháp và tiếng Anh biết
nhường nào. Các nhân vật như những con rối dưới sự điều khiển tài ba của nhà
văn, thi thố đủ tài năng: có lúc anh chàng ma cà bông rách rưới là là chàng Estragon còn nói tiếng Pháp với
“điệu lơ lớ Ănglê”! Và như họ đã tự
nhận, “chúng ta cư nói năng mãi chẳng cạn
lời”. Song tất cả sức mạnh của ngôn từ ở đây giường như con dao hai lưỡi và
bao hàm ý phản lại: nó càng nói lên tính chất vô bổ của ngôn ngữ. “Những chữ, những chữ và những chữ…”. Ta
tưởng như nghe thấy tiếng than của Hamlet về sự rỗng tuếch của lời lẽ một khi
con người chẳng còn có chút ít ý chí để hành động. Sự thủ tiêu ngôn từ qua một
vở kịch đầy lời lẽ - đó chính là điều Beckett đã thực hiện.
Nếu như Gôđô thường được xem như là một ẩn dụ về Jesus
Christ thì người ta cũng dễ dàng tìm ra những điểm tương đồng giữa Lucky và
Chúa. Beckett có thể phủ nhận
việc sử dụng các huyền thoại Cơ đốc trong tác phẩm của mình, nhưng Lucky dường
như chứng minh điều ngược lại. Trong vở kịch, Lucky bị cột vào sợi dây thừng,
một tù nhân nhục nhã, giống như Jesus là tù nhân sau khi Judar bán Chúa. Lucky
mang những đồ đạc lỉnh kỉnh nặng nề của Pôzô, giống như Jesus vác cây thập giá.
Lucky bị dẫn ra chợ, Chúa bị giễu trước đám đông. Nếu như Chúa bị ngã ba lần vì
gánh nặng của mình, Lucky ngã rất nhiều lần vì sức nặng của đống hành lý. Câu
hỏi của Estragon dành cho Pôzô về Lucky: “Tại
sao anh kia không đặt đồ đạc xuống đất” (Hồi I) có thể khiến ta liên tưởng
câu hỏi mà đám đông đặt ra cho Jesus: “Hãy
cứu lấy mình đi! Nếu mi là con Thiên chúa, thì hãy xuống khỏi Thập giá xem
nào!" Trả lời câu hỏi này, Pôzô nói:
“Nó nghĩ rằng thấy nó tận tụy, không biết mệt là gì, ta sẽ ân hận và bỏ điều ta
đã quyết định” (Hồi I). Giống như vậy, Jesus tin rằng Người phải mang gánh
nặng để thức tỉnh niềm tin ở con người. Người nói với các tông đồ: “Thầy được trao quyền trên trời dưới đất.
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa cha, Chúa con và Chúa Thánh thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều
thầy đã truyền cho anh em. Và đây, thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
Trong vở
kịch, ngoài nhân vật cậu bé chăn dê (cũng gợi lên hình ảnh Thiên chúa) và một
Gôđô không bao giờ xuất hiện, hai cặp đôi Vladimir và Estragon, Pôzô và
Lucky thường được phân tích như bốn hình ảnh biểu tượng. Có người căn cứ vào con
số 4 để xem xét dụng ý của Beckett khi
sử dụng bốn nhân vật này. Số 4 được coi là con số của lao động và sự ổn định.
Nó cũng là con số của sự sáng tạo cuộc sống như là một tiến trình. Nguyên tố
đầu tiên của bảng tuần hoàn hóa học là Helium có nguyên tử lượng là 4, và
Carbon, nguyên tố cơ bản của đời sống hữu cơ có hóa trị 4. Một sự thể hiện đầy ý
nghĩa của biểu tượng bộ bốn là sự thể hiện bốn tác giả Phúc Âm dưới dạng hình
những con vật có cánh. Trong đó, Matthew, vị tông đồ nhấn mạnh lòng nhân đạo
của Jesus được gán cho Didi; Mark - người viết về Jesus như một con người hành
động và nhấn mạnh địa vị của Chúa được gán cho Pôzô; Lucky được so sánh với
Luke, vị tông đồ miêu tả Chúa ở sự chịu đựng và là người chịu đựng gánh nặng
của Chúa trên vai; Estragonđược gán cho
John, vị tông đồ viết về Jesus như một con người vươn cao, người thay đổi và
được thay đổi. Cũng như vậy, người ta gán bốn nhân vật này với bốn khí chất
tinh thần cơ bản theo Carl Jung, trong đó Didi là u sầu (Melancholic), Pôzô là nóng nảy (Choleric), Lucky là lạc quan (Sanguine) và Gogo là lạnh lùng (Phlegmatic). Thậm chí họ được gán
biểu tượng bốn nguyên tố cơ bản: Điđi là không khí, đây cũng là biểu tượng của
thánh Matthew, của người chở nước trong cung Bảo Bình, mùa đông; Pôzô là lửa,
với hình ảnh con sư tử trong cung Leo, mùa hè; Lucky là nguyên tố đất, mùa xuân
và cung Kim ngưu; Gogo là nguyên tố nước, cung Hổ cáp, mùa thu và hình ảnh con
đại bàng...
Người ta có
thể gán ghép vô vàn những ý nghĩa biểu tượng cho mỗi nhân vật của Trong khi chờ Gôđô. Tuy nhiên,
những ý nghĩa đó luôn được đặt trong một mối quan hệ chặt chẽ. Mối quan hệ giữa
các cá nhân trong tác phẩm này dường như rất quan trọng, bởi sự tác động lẫn
nhau giữa các nhân vật, khi họ cố để làm thỏa mãn sự chán ngán của người kia,
chính là nền tảng của vở kịch. Sự tác động lẫn nhau giữa Vladimir làEstragonhình thành nền tảng cho chủ đề chính của câu
chuyện. Quan hệ giữa các cá nhân, bao gồm những thứ liên quan đến Godot, có thể
diễn tả như hình ảnh của một sợi dây kết dính giữa họ. Những ẩn dụ vào từng
thời điểm là vô hình hay hữu hình, nối liền những vật thể “vô tri vô giác”, nối liền cái chết và sự sống.
Sợi dây hữu
hình duy nhất xuất hiện là sợi dây thừng quấn quanh cổ Lucky mà Pôzô cầm. Cặp
nhân vật này cách biệt bởi một sợi dây có chiều dài bằng một nửa chiều rộng sân
khấu. Dưới sợi dây, mối quan hệ của các nhân vật này là một sự thống trị nhất quán.
Chỉ dẫn sân khấu ghi: “Pô zô điều khiển Lucky bằng sợi dây thừng quấn quanh cổ
hắn ta”. Lucky giống như con ngựa kéo toa xe của Pôzô trong một mối quan hệ tàn
ác, hống hách. Mặc dù ở trong tình trạng khốn khổ đó, Lucky dường như không có
khát vọng thay đổi. Hoặc hắn không có cảm xúc gì về tình trạng hắn phải chịu.
Có lẽ, như Vladimir và Estragon, hắn không
thể mường tượng cho bản thân bất cứ điều gì khác. Mối quan hệ giữa Pôzô và
Lucky dĩ nhiên không dừng lại ở đấy. Ngày hôm sau, khi họ xuất hiện, sợi dây
nối họ ngắn hơn. Trong điều kiện này, không rõ ai là người dẫn dắt người kia, như
chỉ dẫn sân khấu viết: “Pôzô mù… Dây
thừng như trước, nhưng ngắn hơn, để Pôzô có thể đi theo dễ dàng” (Hồi II).
Lần đầu tiên trong kịch bản, Pôzôphụ thuộc vào sự dẫn đường của Lucky. Lucky
phụ thuộc vào Pôzô cũng cùng một nguyên nhân, dù mối quan hệ này mang tính tinh
thần hơn là vật chất. Độ ngắn của sợi dây cần thiết bởi Pôzô mù, nhưng cũng ảnh
hưởng từ mối quan hệ của họ. Sự gần gũi của họ giờ đây khiến Pôzô khó thống trị
và Lucky không còn là kẻ nô lệ hoàn toàn. Và sau khi va vàoEstragon, Lucky ngã, làm rơi mọi thứ và kéo luôn Pôzô
ngã xuống. Họ nằm bất động giữa đống hành lí ngổn ngang.
Vladimir và Estragon cũng có mối quan hệ tương tự trong nhiều
mặt, vì có một sự phục tùng và sự thống trị rõ ràng trong mối quan hệ giữa họ.
Tuy nhiên, sự phục tùng và sự thống trị này không hoàn toàn như ở Lucky và Pôzô.
Chẳng hạn như khi hai người bạn cố tìm ra một trò giết thời gian, Vladimir đề
nghị hãy chơi “như Pôzô và Lucky”,
trò chơi khiến họ lăng mạ nhau để tìm vui. Vladimir yêu cầu Estragon đóng vai Pôzô thống trị mình, mặc dù thực tế
Vladimir là người quyết đoán hơn. Một cách khác, Vladimir và Estragon nghĩ đến
việc tự kích dục, treo cổ hay làm điều gì đó khác biệt tránh sự đơn điệu trong
chuỗi đợi chờ hàng ngày của họ và có thể giúp họ khiến cho thời gian trôi
nhanh. Nhưng Vladimir và Estragon chưa bao giờ
suy ngẫm về việc tự treo cổ trong một tình huống hiện thực, nhìn nó như một hành
động có thể ngăn họ gặp Gôđô (ít nhất trong cách hiểu ông ta là một con người).
Treo cổ do vậy với họ là một sự lãng trí khác, có lẽ là một tưởng tượng. Họ
không thể tự tử. Đầu tiên họ nhận ra rằng cái cây duy nhất trong thế giới của
họ không đủ chống đỡ sức nặng của Vladimir. Ngày thứ hai, họ không thể treo cổ
vì thiếu dây thừng. Dường như Vladimir vàEstragoncoi đó là một
chủ đề tranh luận. Và bản thân họ thì bị cột vào một sợi dây vô hình trói buộc
với Gôđô trong một tình trạng chờ đợi bất tận và bất khả kháng.
Chúng tôi không có ý định phân
tích cụ thể ý nghĩa các biểu tượng qua hình tượng các nhân vật của Trong khi chờ Gôđô. Bởi nếu làm như vậy sẽ lại rơi vào
vòng xoáy vô tận của kết cấu vở kịch, tệ hơn, sẽ sa vào áp đặt. Bộ đôi Điđi -
Gôgô, Pôzô - Lucky và thậm chí cả cái cây, sợi dây thừng vốn đã chồng chất những
ý nghĩa ám ảnh. Và với mỗi thời điểm lịch sử khác nhau, người ta cũng có thể
thêm vào cho chúng những ý nghĩa khác nhau. Điđi – Gôgô có thể là những kẻ bị
bóc lột, Pôzô có thể là hình ảnh của kẻ độc tài, Gôđô có thể là Chúa cứu thế...
Suy cho cùng, mỗi nhân vật là một mảnh vỡ. Mỗi mảnh vỡ có thể mang nhiều ý nghĩa
khác nhau. Vô số mảnh vỡ tạo nên vô số biểu tượng, và chúng nhân gấp bội theo sự
suy luận của con người cùng với thời gian.Gôđô tồn tại bên ngoài vũ trụ trong một
tự do không bị kiểm soát bởi sự hạn chế của thế tục. Ông ta là sự trừu tượng tồn tại trong tĩnh lặng
của hư vô. Điđi và Gôgô thiếu thốn những đặc trưng cụ thể nhưng so với điểm 0
thì họ vẫn là những hiện hữu xác thực. Họ vẫn làm gì đó, họ đợi, họ suy nghĩ,
nói năng, đi lại. Những song đề hiện hữu - thiếu vắng, trừu tượng - xác thực
xáo trộn trong tác phẩm, trở thành mối băn khoăn duy nhất và vĩnh viễn. Và có lẽ,
đó cũng là câu hỏi về cái tôi,
trong sự trầm mặc đến ghê sợ của hư vô không cùng. Trong khi chờ Gôđôcó lẽ là bi kịch được che đậy trong
những hành động khôi hài của các nhân vật. Nó là bi kịch của con người trong
trò chơi của định mệnh không bao giờ tìm thấy sự kết thúc
Như vậy, tính cách nhân vật trong “Trong khi chờ đợi Gôđô” quả là một điều
bí ẩn mà khi càng khám phá ta lại càng
thấy nó độc đáo. Nhân vật có cử động những không vận động, nhân vật có ngôn ngữ những lại có những dường như lại trở
thành phi ngôn ngữ. Qua cách phân tích lý giải trên, chúng tôi khẳng định rằng
nhân vật trong kịch “Trong khi chờ đợi
Gôđô” nhìn chung họ vẫn mang tính cách, mang những đặc điểm của nhân vật kịch.
Tuy nhiên, dưới ngòi bút của Beckett họ hiện hữu, sinh động! Tất cả là những bí
ẩn để độc giả, khán giả cùng khám phá, thưởng thức,… Trên tất cả đó là nghệ thuật
của sự phá hủy xung đột kịch – phá hủy tính kịch, để tác phẩm từ những thứ hiện
hữu trở thành hư vô, những thứ tưởng trừng chỉ là hư vô lại hiện hữu sinh động.
“Trong khi chờ đợi Gôđô” đã thực
sự trở thành một tác phẩm kịch phi lý độc đáo mà chỉ ở Beckett ta mới tìm thấy
được điều đó! Xung đột kịch là một chuỗi “Sự
phá hủy tính Kịch”! Tất cả từ có trở thành không, huyền ảo, viển vông, mông
lung, hão huyền. Nếu như ở kịch truyền thống sẽ có mở nút – cao trào – thắt
nút, hay với Brêcht sự cao trào, thăng trầm liên tiếp cho đến khi mở nút – thắt
nút thì đến với Beckett kịch của ông là một vòng tròn… tưởng rằng đi đến tận
cùng của sự kết thúc nhưng cuối cùng nó lại trở về điểm đầu tiên! Một vòng tròn
thống nhất! “Trong khi chờ đợi Gôđô”
mới là bước đầu của sự hủy diệt kịch tính (theo ý nghĩa truyền thống) so với
các vở sau này. “Trong khi chờ đợi Gôđô”được
coi như một sự bùng nổ chỉ vì nó là vở đầu tiên, để rồi khi đã quen dần với
công chúng, sân khấu sẽ tiếp nhận những hiện tượng táo bạo hơn nữa của kịch
Xamuyen Beckett.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1.
Lê Huy Bắc, Giáo trình văn học Âu
Mỹ thế kỷ XX – NXBĐHSPHN, 2010
2.
Đặng Anh Đào, Giáo trình Văn học
phương Tây – NXB Giáo dục – 1999
3.
Đình Quang, Trong khi chờ đợi Gôđô, NXB Sân khấu, 2006
4.
Một số bài nghiên cứu trên nguồn
Internet “ebook.com”
Nhật ký hoạt động nhóm
Họ tên
|
Công việc
|
Bùi Thị Thùy Linh
|
I.
Khái quát + III.1Phân
hủy tình huống kịch
|
Vi Thị Nhàn
|
II. Xung đột
trong kịch phi lý + III.3. Phân hủy ngôn
ngữ nhân vật
|
Nguyễn Thị Hải Yến
|
III.2. Phân hủy
thời gian, không gian kịch
|
Đỗ Thị Mơ
|
III.3. Phân hủy
ngôn ngữ nhân vật + IV kết luận
|
Nguyễn Thị Thảo
|
III.4. Phân hủy tính cách nhân
vật – Chỉnh sửa – tổng hợp bài
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét