HỌC PHẦN: THỂ LOẠI VÀ CÁC TÁC GIA
TIÊU BIỂU
VĂN HỌC TÂY ÂU – MỸ
Thành viên nhóm:
Vũ Thị Thúy Quỳnh – C-k64
Hoàng Thị
Thảo – C-k64
Vũ Thị
Trang – D-k64
Trần Thị Hồng
Ngát – B-k64
Nguyễn Thị
Hạnh – A-k64
Mục lục
HỌC PHẦN: THỂ LOẠI VÀ
CÁC TÁC GIA TIÊU BIỂU
VĂN HỌC TÂY ÂU – MỸ
Đề tài: Xung đột
kịch trong Chờ Godot của Samuel Beckett
Bài làm
-
Samuel Beckett (1906-1989), trong
một gia đình giàu có ở Dublin.
-
Năm 1919 Beckett hưởng thụ nền giáo dục của đạo Tin lành ở Portora Royal
School ở Enniskillen và Trinity College, Dublin
-
Năm 1927 ông sang Pari làm việc tại trường Sư phạm-một trung tâm nổi
tiếng về đào tạo những người có học vấn và tự do về tinh thần. Lúc này, ông bắt
đầu viết những bài nghiên cứu về Joix, làm thơ, trở về Dublin học thêm về nghệ
thuật, kết hợp giảng dạy, viết tiểu luận về Pruxt.
-
Trong thập niên 1930, để thoát
khỏi không khí ngột ngạt trong nước ông đã ra nước ngoài và đi du lịch nhiều
nơi. Năm 1937 Beckett định cư ở Pari, làm quen với người bạn đời tương lai (kết
hôn năm 1961) là nữ nghệ sĩ dương cầmSuzann Dumesni
-
Đại chiến II nổ ra, dù là người ngoại quốc và
tỏ ra xa rời chính trị, Beckett vẫn tham gia vào phong trào kháng chiến bí mật
của Pháp. Tới năm 1942, sợ bị lộ ông phải trốn Pari ra vùng tự do có thời gian
làm thuê trong một trang trại để kiếm sống
-
Beckett mất tại Pari ngày 22/12/1989
-
Beckett không khởi đầu bằng kịch viết bằng
tiếng Pháp mà bắt đầu sự nghiệp văn chương bằng tiểu luận, thơ, tiểu thuyết và
truyện ngắn viết bằng tiếng Anh
-
Với Beckett, cái nền là cả một chân trời rộng
rãi của Châu Âu với những bóng dáng của Kafka, Jodx, Pruxt là những nhà tiểu
thuyết rồi muộn hơn nữa là những nhà văn hiện sinh chủ nghĩa, họ là những nhà
văn không chỉ viết kịch. Tuy nhiên, bởi Beckett nổi tiếng giữa lúc kịch Pháp có
một sự đổi mới đáng kể cũng như ông vượt ra khỏi sự vô danh bằng ánh đèn sân
khấu, nên người ta trước hết vẫn gắn ông với kịch Pháp vào những năm 50
-
Từ năm 1938, một số tiểu thuyết được ông viết
như Mơcphy (1938), mối tình đầu (1945). Từ 1947-1949 ông
viết: Monca, Malon chết, Vật không tên,
Trong khi chờ Godot, …
-
Năm 1969, vinh quang đã đến với Beckett khi
ông giành được giải thưởng Nobel văn học. Sau đó ông tiếp tục lối viết tạo một
không khí dị biệt với những tác phẩm như: Đồng
hành (1980), Thảm họa (1984) Những mối kích động (1989)
è “Dù cho
Beckett không thu hút sự chú ý từ gốc tích Ailen của mình như Itx và Joyx nhưng
các tác phẩm của ông, đôi khi, lại nói bóng gió một cách âu yếm về những chi
tiết bất ngờ, đặc thù cho Ailen” (Risa Elmam)
-
Trong khi chờ
Godot là vở kịch
đầu tiên trong sáng tác kịch của Samuel Beckett, tác phẩm khiến ông bước từ
bóng tối ra ánh sáng bởi trước cuốn này,
tên tuổi Beckett vẫn coi như chưa được biết đến
-
Dù được viết năm 1948, nhưng phải đợi tới 3
năm sau mới được in. Xuất bản 1952, được công chiếu lần đầu tiên vào ngày
3/1/1953, tác phẩm bị từ chối dai dẳng từ nhiều nhà hát nay bỗng biến nhà văn
trở thành người nổi tiếng. Khoảng cách từ lúc viết đến lúc ra mắt khán giả đã
chứng tỏ sức đột phá của Trong khi chờ
Godot bị cản trở như thế nào.
-
Beckett có thừa nhận trong cuộc phỏng vấn
hiếm hoi với phóng viên tờ bưu điện New York Jerry Tallmar rằng “Cuộc đối thoại
trong vở kịch này dựa trên cuộc đối thoại giữa ông với người yêu Suzanne ở
Roussillon, nơi hai người ẩn náu sau khi tổ chức kháng chiến Pháp bị đàn áp”
-
Trong khi chờ
Godot có hai nhân
vật, hai người tuổi chưa già nhưng không còn trẻ nữa, Vladimir và Estragon, cố
gắng tiêu phí thì giờ trong lúc chờ Godot – một nhân vật bí mật không bao giờ
xuất hiện
-
Vở kịch gồm 2 hồi, ở hồi 1 mở màn với hai gã
lang thang Vladimir và Estragon gặp nhau bên “một cái cây trụi lá, trên một con
đường ở nông thôn vào buổi chiều muộn”. Họ chờ đợi một con người tên là Godot,
để giết thì giờ họ cố gắng gợi lại quá khứ, đùa cợt, ăn và phán đoán về Godot.
Pozzo, một kẻ bạo chúa xuất hiện cùng với Lucky, người hầu của hắn ta. Godot
gửi một lời nhắn rằng hôm đó ông ta không đến nhưng nhất định ngày hôm sau sẽ
đến. Ở hồi 2, thời gian cũng vào chiều muộn như thế, cũng vẫn địa điểm đó nhưng
cây đã ó vài cái lá, Vladimir và Estragon vẫn đợi, Godot gửi một người đưa tin
đến nói cũng sẽ không đến, hai kẻ đợi chờ cố gắng để tự treo cổ và rồi tuyên bố
họ sẽ rời đi, nhưng họ vẫn không hề nhúc nhích. Vở kịch kết thúc.
-
Kịch phi lí là khái niệm gắn với một loạt
hiện tượng trong văn học Tây Âu những năm 50-60 của thế kỉ XX. Khái niệm “phi
lí” (gốc La Tinh absurdus) xuất phát từ triết học chủ nghĩa hiện sinh về tính
phi lí, tính vô nghĩa của cuộc sống .
-
Thuật ngữ “kịch phi lí” xuất hiện trong lần biểu
diễn ra mắt ở Pari vở kịch Nữ ca sĩ hói đầu (1950) của E.I-ô-nét-xco và Trong
khi chờ Godot của Samuel Beckett.
-
Đặc điểm chính của kịch phi lí là “trình bày theo lối hài kịch nghịch dị
những hình thức giả dối và vô nghĩa lí của sinh tồn con người. Kịch phi lí đoạn
tuyệt với truyền thống do đó còn được gọi là “ phản văn học”, “phản kịch”,
“phản sân khấu” (Từ điển thuật ngữ văn học)
-
“Phản kịch” ở đây có thể được hình dung chủ yếu là phản kịch truyền
thống bằng việc sử dụng những phương tiện trang trí sân khấu sơ sài, không chú
trọng sự việc giống như thật, hủy diệt ba yếu tố cơ bản của kịch: xung đột,
nhân vật và ngôn từ. Ngôn ngữ, đặc biệt là đối thoại dường như đã bị đe dọa và
xóa bỏ đi giá trị vốn có trong kịch truyền thống, “ngôn ngữ của con người trong
kịch phi lí bị biến thành hình thức, không còn khả năng làm phương tiện giao
tiếp” nhưng ngược lại các vật thể lại trở thành hùng hồn khiến ngôn từ trong
khi bị hủy diệt lại chiếm một vị trí quan trọng tới mức “có người coi ngôn ngữ
như là nhân vật hàng đầu của kịch phi lí”
-
Từ bỏ sự phân tích xã hội, phủ nhận năng lực của lí tính, nhưng kịch của
sân khấu phi lí dù sao vẫn chứa đựng cảm hứng phản kháng thực tại tư sản, đạo
đức và “lương tri” tư sản, tiểu thị dân
-
Một trong những thủ pháp chính của kịch phi lí là nghịch dị, được coi
như là thủ pháp chứa đựng nội dung đích thực của thực tại, bản chất phi logic và vô nghĩa của thực tại
Có thể coi với vở
kịch Trong khi chờ Godot Beckett là
người mở đầu cho sự xuất hiện của kịch phi lí. Ta có thể tìm thấy tất cả những
đặc điểm tiêu biểu nhất của kịch phi lí trong vở kịch này của ông. Vở kịch làm
sụp đổ hoàn toàn những khái niệm quen thuộc của sân khấu kịch truyền thống:
Không hành động, không xung đột, không có tình huống kịch dẫn đến sự phát triển
của hành động để mà thắt nút hay cởi nút, cốt truyện hầu như không có gì để có
thể kể lại gây hấp dẫn với người nghe và ngôn từ nhân vật lại ngớ ngẩn, sáo
rỗng.
ð
Chúng tôi nhấn mạnh rằng, vì đây là một vở kịch phi lí đã bị thủ tiêu
hầu hết những yếu tố cơ bản của kịch truyền thống bởi vậy không thể tìm ra xung
đột kịch trong tác phẩm ấy bởi thực chất xung đột ấy đã hoàn toàn bị thủ tiêu.
Dưới đây, theo quan điểm của chúng tôi, chúng tôi sẽ đi đến làm rõ sự phá vỡ
xung đột kịch trong tác phẩm Trong khi
chờ Godot
Trong vở kịch này,
chúng tôi nhìn nhận sự phá vỡ xung đột kịch được thể hiện trên những phương
diện tiêu biểu sau: Sự phá vỡ tình huống kịch truyền thống, hành động, ngôn ngữ
nhân vật và không gian- thời gian.
Tình huống kịch trong kịch truyền thống là
quá trình phát triển kịch tính dựa trên “nguyên tắc nhân quả”, sự quy ước thỏa
thuận về mặt tâm lí. Còn trong kịch phi lí, nguyên tắc nhân quả bị chối bỏ.
Trong tác phẩm Trong khi chờ Godot
đã phá vỡ nguyên tắc hợp lí trong kịch truyền thống mà thay vào đó là một tình
huống phi lí, đó là sự chờ đợi mù quáng và vô vọng. Họ chờ đợi một đối tượng không biết bao giờ sẽ đến. Vladimir và
Estragon chờ đợi Godot ngày này qua ngày khác, ở cùng một địa điểm. Godot không
đến và họ vẫn cứ chờ. Tình huống này lặp đi lặp lại và nó không có nguyên nhân,
kết quả, không có kịch tính để tạo xung
đột kịch. Hai nhân vật
Estragon và Vladimir thất nghiệp tìm mọi cách giết thì giờ trong khi chờ đợi một
người được gọi là Godot, nhưng cuối cùng đợi không được; Godot có thể tồn tại,
cũng có thể không tồn tại, kịch kết thúc, Godot cũng không đến. Toàn bộ tác phẩm
ngoài việc đợi chờ, không có một điều gì khác phát sinh, tại sao lại đợi Godot,
Godot là ai, tại sao Godot không đến, tất cả những điều này đều không quan trọng.
Tác phẩm dùng cốt truyện không kịch như vậy là để nói lên một điều, nhân loại
ngoài việc đợi chờ vô vọng hoặc ngồi đó chờ chết thì không còn con đường nào
khác; con người đã không thể biết được về vận mệnh của mình, không thể suy tư về
tất cả những thứ quanh mình, cho nên, ngoài việc đợi chờ đầy tiêu cực, ngoài những
việc vô nghĩa như vậy, còn biết làm gì đây? Tác phẩm không có nội dung cụ thể,
đợi chờ mù quáng và vô vọng chính là nội dung, ý nghĩa của nó là sự vô nghĩa của
đợi chờ..
Godot là biến âm của từ God có nghĩa là Chúa trời, Thượng đế. Điều đó
mang lại cách lí giải mới mẻ cho vở kịch. Vở kịch chính là sự phác họa khôi hài
về sự chờ đợi vô vọng của con người đối với một Đấng tối cao, một vị Chúa trời.
Tác phẩm thể hiện khát vọng tìm kiếm chân lí, đức tin của con người.
Điều đặt ra ở đây là tại sao con người lại
mong chờ Đấng Cứu tinh mãnh liệt đến vậy. Sở dĩ lòng tin đó không thể dập tắt
vì nó thuộc về tâm linh con người. Từ lâu con người đã sống với một đức tin
thiêng liêng.Dù có phải đánh đổi cả cuộc đời để chờ đợi thì con người vẫn không
nguôi đi sự chờ đợi, dù mòn mỏi ê chề nhưng họ vẫn chờ đợi. Các nhân vật Estragon
và Vladimir trong vở kịch là đại diện cho nhân loại với niềm tin thiêng liêng.
Từ đó tác phẩm này đã khích lệ niềm tin và hi vọng của con người. Tác phẩm nhờ
đó mà vẫn mang ý nghĩa tích cực.
ð Tiểu kết : Như vậy, tình huống kịch
trong Trong khi chờ Godot tiêu biểu
cho tình huống kịch trong kịch phi lí, không theo một nguyên tắc, một logic
nào. Chính điều này là một nhân tố quan trọng để phá vỡ xung đột trong vở kịch
này của Beckett.
Kịch theo quan niệm truyền thống được xây dựng trên những diễn biến duy
nhất của một hành động bên ngoài gắn liền với sự đấu tranh của các nhân vật.
Kịch truyền thống từ Aristot là kịch của hành động. Hành động chính là yếu tố
duy trì sự vận hành của tác phẩm. Mối quan hệ bền vững giữa hai yếu tố xung đột
và hành động tạo thành phẩm chất riêng biệt của thể loại: Hành động kịch thường
phát triển theo hướng thuận chiều với xung đột kịch. Xung đột càng căng thẳng
thì thiên hướng hành động càng trở nên quyết liệt và nhờ thế sức hấp dẫn lôi
cuốn của tác phẩm được tăng lên.
Thay vì theo kịch truyền thống - cái luôn yêu cầu một vở kịch phải có
một sự bóc trần, một cao trào và một kết thúc thì kịch của Beckett có một kết
cấu tuần hoàn có thể được miêu tả như một vòng tròn lặp đi lặp lại vô tận. Độc
giả không thể tìm thấy ở Trong khi chờ
Godot bất cứ xung đột nào. Do vậy, hành động kịch ở đây vừa chạy vòng quanh
lại vừa giậm chân tại chỗ. Nói đúng hơn, hành động kịch của Trong khi chờ Godot giống như một đường
xoắn ốc cứ trở đi trở lại và “không có gì xảy ra” cả. Việc Vladimir và Estragon
cứ mỗi ngày đến chờ Godot ở cùng một địa điểm, cùng một thời khắc, lặp lại cùng
một hành động giống nhau, gặp lại cùng những người đã gặp là một phần của vòng
xoắn ốc thu nhỏ sẽ tiếp tục, tiếp tục đến vô cực.
Hồi II của vở kịch không hẳn là bản sao chuẩn xác của hồi thứ nhất nhưng cơ bản là sự lặp lại. Các chuỗi hành
động lặp lại cùng với các chuỗi sự kiện tương tự: Estrangon ngủ trong cái hố,
Vladimir gặp hắn bên cái cây, họ gặp Pozzo và Lucky, và rồi cậu bé đến thông
báo rằng Godot không đến nhưng chắc chắn sẽ đến vào ngày hôm sau. Bằng cách
này, sự lặp lại tạo ra kết cấu vở kịch không có cao trào bởi một điều duy nhất
mà cốt truyện xây dựng đó là sự kiện đến của Godot. Tuy nhiên, sau hồi đầu tiên
công chúng có thể khẳng định rằng Godot sẽ không bao giờ đến. Để hồi II trình
diễn chuỗi hành động tương tự, Beckett tạo cho chúng ta cảm giác về sự chờ đợi
của chúng ta và những chuỗi hành động hằng ngày. Mỗi ngày của chúng ta là gì
nếu không phải là một hồi kịch tương tự. Chắc chắn có những thay đổi nhỏ nhưng
rõ ràng là chúng ta dường như đang sống những chuỗi ngày giống nhau. Với những
nhân vật trong vở kịch, chúng ta có cảm giác điều xảy ra luôn luôn không có gì
đổi mới với họ.
Vladimir: Một buổi chiều thú vị
Estragon: Không thể quên được
Vladimir: Và chưa phải là kết thúc
Estragon: Phải nói là chưa
Vladimir: Chỉ mới bắt đầu
Estragon: Khủng khiếp
Vladimir: Tao tưởng như đang ngồi xem kịch
Estragon: Xem xiếc
Một giải pháp được chọn đối với nhân vật của Beckett ở đây được tái diễn
một cách máy móc, lặp lại những cử động, tái diễn các trò chơi không ý thức:
Vladimir và Estragon lặp lại những động tác vô nghĩa không với một ý thức nào
cả và nhờ vậy thời gian trôi đi. Ở cả hai hồi họ cùng ôm hôn nhau, cùng nghĩ
đến việc treo cổ lên cây, việc chia tay hay rời đi:
Vladimir: Vậy ta đến đó chứ
Estragon: Ừ đi thôi
(Hồi I)
Tương tự,
Vladimir: Vậy ta đi chứ
Estragon: Ừ đi
(Hồi II)
Rõ ràng, khán giả và độc giả sẽ hoàn toàn thất vọng nếu tìm ở đây một
lối triển khai hành động kịch dựa trên xung đột kịch theo kiểu truyền thống.
Không thể nói Didi và Gogo có xung đột với Godot hay Lucky có xung đột vơi Pozzo như một số
người vẫn áp đặt. Cái gọi là hành động kịch ở đây chỉ là một chuỗi lặp lại liên
tục. Đó là chuyển động vòng quanh của âm thanh, cử động, điệu bộ trong một vòng
tròn được quy định một vòng tròn mở rộng mãi mãi và không bao giờ có thể định
rõ một vòng tròn rộng hơn bên ngoài.
Trạng thái đều đều nhàm chán, vô vị như chính cuộc sống của nhân vật
được thể hiện qua chính sự trùng lặp luẩn quẩn, đơn điệu đó. Nó cũng được thể
hiện qua lời bài hát của Vladimir ở đầu hồi II:
“Một con chó chạy vào bếp
Ngoạm một khúc dồi
Đầu bếp vớ cái muôi
Đập nó tan thành vụn
Những chó khác thấy vậy
Vội đem nó đi chôn…”
Lời hát cứ thế quanh đi quẩn lại và nhân vật của Beckett cũng quanh đi
quẩn lại trên sân khấu, các hồi kịch cũng quanh đi quẩn lại với những nhân vật,
những động tác ngớ ngẩn vô ích: Estragon cầm mũ của Vladimir, Vladimir dùng cả
hai tay chỉnh lại chiếc mũ của Lucky trên đầu gã, Estragon bỏ mũ gã ra đội lên
đầu chiếc mũ của Vladimir rồi đưa mũ của gã cho Vladimir, Vladimir cầm mũ của
Estragon, Estragon dùng cả hai tay chỉnh lại chiếc mũ của Vladimir trên đầu gã.
Vở kịch có thể một lúc nào đó tạo ra tiếng cười cho khán giả bằng những
trò hề ngu xuẩn, những câu nói vô nghĩa của nhân vật. Tuy nhiên, như Beckett
xác định ở phụ đề đó là một bi hài kịch, có thể khán giả sẽ cười vì thấy rằng
mình không bị rơi vào trạng thái tồi tệ đó. Nói về khái niệm phi lí, Beckett
không bình luận mà thể hiện nó một cách sinh động trên sân khấu. Nếu như trong
kịch truyền thống, sự xâu chuỗi các hành động kịch tính trong hành động của
nhân vật được xây dựng trên nguyên tắc logic và nhân quả ở tác phẩm này hoàn
toàn không có điều ấy. Các cảnh dường như được xây dựng với những câu nói không
có sự liên kết với logic rành mạch, tất cả chỉ là những sợi dây rối bời:
Estragon: Một kiểu cầu xin chung chung
Vladimir: Đúng thế
Estragon: Một yêu cầu mơ hồ
Vladimir: Nói thế cũng được
Estragon: Lúc đó ông ta trả lời ra sao
Vladimir : Là ông ta sẽ trả lời sau
Estragon : Là ông ta chưa thể hứa gì
Vladimir : Là ông ta cần suy nghĩ đã
Estragon : Lúc bình tĩnh
Vladimir : Lại còn phải hỏi ý kiến của gia đình
Estragon : Ý kiến các người liên quan
…..
(Hồi I)
Có vẻ sự xen kẽ của những độc thoại không liên quan làm cho các câu trên
không có mối quan hệ logic, sự ổn định trong tường thuật. Các nhân vật dường
như không nhận thức được những gì họ liên quan hay nơi nào, cái gì mà cuộc hội
thoại của họ nói tới. Ở đây, điều cần nhấn mạnh là sự triển khai hành động kịch
hoàn toàn không dựa trên logic nhân quả vì thực không có khoảnh khắc kịch tính
nào cả bởi xung đột đã bị xóa bỏ hoàn toàn.
Kịch truyền thống thường gợi lên những nhân vật nung nấu ý chí, hành động
mãnh liệt. Dù ở dạng nào nhân vật kịch cũng tự khẳng định bản chất của mình
bằng hành động. Bao nhiêu tính cách là bấy nhiêu giằng xé và nhân vật kịch sau
khi xuất hiện thì phải nhập ngay vào tuyến xung đột và lôi cuốn nhanh vào
guồng hành động cảu tác phẩm.
Theo quan niệm truyền thống,
nhân vật vật kịch phải có hành động và tính cách, nhưng trong Trong khi chờ Godot đã phá vỡ hành động, vì thế trong tác
phẩm không tồn tại cái gọi là tính cách hiểu theo nghĩa truyền thống. Các nhân
vật Vladimir, Estragon, Pozzo, Lucky có nói năng, có hành động nhưng họ không
có những dục vọng, những quyết định đột ngột, những phản ứng trí tuệ sắc sảo,
những biểu hiện sáng rõ của suy nghĩ và cảm xúc – những yếu tố cốt lõi đới với
nhân vật kịch
Nhân vật trong Trong khi chờ
Godot không có những mối xung đột cá nhân hay xã hội. Giữa họ không có mâu
thuẫn để tạo bất cứ một bước ngoặt nào mà ở đó cá tính của họ được bộc lộ. Các
nhân vật không có một sắc thái cá thể rõ ràng, họ giống như những biểu tượng
phức hợp. Vladimir và Estragon hằng ngày đến chờ Godot nhưng không biết Godot
là ai. Như vậy không thể hiểu là có một mối quan hệ thống trị hay bị trị giữa
họ với Godot ở đây. Trong quá trình chờ đợi của họ thì Godoat không đến lần nào
cả nhưng họ vẫn không thể hiện thái độ tức giận hay tuyệt vọng, họ tuy có ý
định treo cổ nhưng ý nghĩ đó không xuất phát từ nhận thức về tình trạng của
mình mà đó chỉ là một cách cho thời gian qua đi.
Vladimir : …Ta làm gì bây
giờ ?
Estragon : Chờ
Vladimir : Nhưng trong khi chờ
ta làm gì ?
Estragon : Hay tao với mày treo cổ lên ?
Vladimir: Hay tao với mày treo cổ lên
Estragon: (Khoái trá)
Những hành động của
các nhân vật không xuất phát từ những dự cảm trong tâm thức mà nó trở thành một
dạng thụ động. Nhân vật làm theo các động tác máy móc, vô nghĩa để giết thời
gian và đôi lúc họ không kiểm soát được chính cơ thể của mình. Họ giống như là
những con rối chứ không phải những con người có ý thức.
Tính cách của các nhân
vật Trong khi chờ Godot bị đơn giản hóa một cách tối đa trong khi đặc tính hài
hước, trần trụi của họ bị cường điệu thái quá. Khán giả khi xem vở kịch có thể
cười lăn lộn trước những hành động : tháo giày của Estragon, trước trò
chơi với cái mũ của hai gã, trước câu chửi bới tục tĩu của Pozzo, nhưng tuyệt
nhiên không thể xét đoán xu hướng tiến triển của vở kịch như khi họ xem một vở
kịch truyền thống. Nhân vật của Trong khi
chờ Godot không chỉ bị xóa mờ tính cách và hành động mà còn được tác giả
dán ghép các cặp nhân vật bên cạnh nhau và giữa họ không có mối liên hệ nào. Sự
xuất hiện của Pozzo và Lucky không thúc đẩy, không trì hoãn, không gây ảnh
hưởng rõ rệt nào tới Vladimir và Estragon. Thông thường trong kịch, mỗi nhân
vật đều đóng vai trò cụ thể đối với sự triển khai hành động kịch, co thể mở ra
một xung đột hoặc khơi dậy một hướng giải quyết. Nhưng trong tác phẩm của
Beckett dù Pozzo và Lucky có xuất hiện hay không thì Didi và Gogo vẫn ngày ngày
đứng dưới cái cây chờ đợi Godot và tái diễn những trò hề tẻ nhạt, vô nghĩa của
họ. Nhà viết kịch để họ đứng cạnh nhau trên sân khấu với một kết nối duy nhất
là tình trạng bi đát mà họ đang cùng trải qua, chính vì thế họ trở thành những
mảnh vỡ số phận của nhân loại
Với sự xóa mờ tính cách nhân vật như
vậy, rõ ràng nhân vật của Trong khi chờ Godot không thể được nhìn nhận trong
một logic phù hợp hơn giữa tính cách và hành động. Do vậy, không khoác chiếc áo
điển hình cho một tầng lớp hay một kiểu người nào. Nhưng nhân vật của Beckett
lại nói được nhiều hơn thế, ông đưa ra cho người đọc, người xem một mớ hỗn độn
mà không chỉ ra bất cứ điều gì, người đọc phải tìm kiếm, suy nghĩ và kết nối
chúng lại thì mới có thể hiểu được. Nhân vật của Trong khi chờ Godot là những
nhân vật mang ý nghĩa biểu tượng cao.
ð Tiểu kết : Hành động của Trong khi chờ Godot đã bị phá vỡ hoàn toàn
khi cốt truyện và xung đột kịch không tồn tại, nó chỉ còn là những chuỗi lặp đi
lặp lại những động tác, âm thanh trong một cấu trúc luẩn quẩn chạy vòng quanh.
Nó không đặt ra mâu thuẫn nào, không giải quyết mâu thuẫn nào cả cũng không
khắc họa một tính cách hay thúc đẩy một xung đột mang tính xã hội. Nó chỉ còn là
những ám ảnh, những ẩn dụ về sự hiện hữu, phi lí của nhân vật
Đặt trong mối quan hệ với
hành động kịch, nhân vật của Trong khi
chờ Godot cũng được đánh giá là không phù hợp với kịch truyền thống. Tính
cách của họ bị phá vỡ và chỉ còn lại những đặc tính hài hước, trần trụi, nhưng
họ cũng là hình ảnh sâu sắc nhất về tình trạng bất ổn hiện hữu thường trực
trong đời sống con người.
Không có xung đột, không có
hành động, không có tính cách theo kiểu truyền thống nhưng vở kịch vẫn duy trì
và gây ra kịch tính nhờ những lớp ý nghĩa biểu tượng, những ám dụ mà người đọc
có thể suy ra từ mỗi hình tượng nhân vật.
Ngôn ngữ kịch theo kịch truyền thống, ngoài những chỉ dẫn sân khấu của tác
giả còn chủ yếu ngôn ngữ của nhân vật. Khi xét đến ngôn ngữ kịch thông thường
người ta ít đề cập đến chỉ dẫn sân khấu mà chỉ đề cập đến ngôn ngữ nhân vật bởi
đó là ngôn ngữ có tính hành động, tính khẩu ngữ, tính hàm súc và phù hợp với
tính cách nhân vật. Mỗi nhân vật với một nguồn gốc xuất thân, bản chất xã hội
và một đặc điểm cá tính riêng, phải có ngôn ngữ phù hợp.
Trong vở kịch Trong khi chờ Godot Beckett
đã phát triển khả năng của loại hình sân khấu kịch phi lí bằng lời của những ý
nghĩa xúc tích và chiếm hữu một khả năng duy nhất để khớp nối cả sự im lặng lẫn
sự thiếu vắng trên sân khấu. Trong vở kịch này, ông sử dụng thứ ngôn ngữ chấp
nhận sự tồn tại trong tình trạng hỗn loạn và nhận thức rõ sự sa đọa của ngôn
ngữ. Ông lựa chọn lời thoại kịch như là cấp độ cơ bản của hành động nhưng nghi
nhờ sâu sắc những từ ngữ ấy. Chúng không thể giao tiếp hay thể hiện, chúng chỉ
có thể đem lại sự thất bại mặc dù nhu cầu thể hiện bằng ngôn ngữ là một nhu cầu
bắt buộc.
Vở kịch này viết ra với ý thức rằng ngôn ngữ bất lực với những cảm xúc bên
trong và sự chấp nhận một thực tế rằng ngôn ngữ cũng là bản chất tồn tại của
con người, do đó nó là một yếu tố không thể xóa bỏ. Ngôn ngữ trong Trong khi
chờ Godot dường như chuyển động theo một quỹ đạo không bao giờ chạm tới cái
trung tâm là sức mạnh biểu hiện hay khả năng biểu hiện. Beckett đã thừa nhận
cái bất lực của ngôn ngữ trong giao tiếp để làm nổi bật sự phi lí trong tồn tại
của con người, ông phá vỡ cơ bản những ý niệm ngôn ngữ, thiết lập các yếu tố
của kịch trong một dạng thức tự do. Ngôn ngữ của Trong khi chờ Godot do vậy mà
trở thành sự pha trộn giữa vô thanh và hữu thanh, mập mờ và không giới hạn.
Ngôn ngữ của vở kịch này đã
bắt đầu bị tiêu biến trong những âm thanh vô nghĩa và những động tác lặp lại.
Đối thoại của các nhân vật dường như không có khớp nối mà chỉ là những âm thanh
được đặt cạnh nhau chen lấn một cách xô bồ, không thể hiện rõ ràng một nội dung
hội thoại nào. Với Beckett bi kịch của tình trạng con người nằm trong một thực
tế là ngôn ngữ phá hủy mọi hành động, nó chỉ là kẻ xúi giục, trói buộc nhân
loại vào thế giới vật chất không có cái tôi. Do đó, ngôn ngữ kịch đã cố gắng
phá vỡ sự kết hợp và chuỗi liên tục có tính logic từ đó thể hiện sự phân hủy ý
thức :
Estragon : Thứ đó cũng còn khá hơn tim đập nhanh
Vladimir : Đúng nhưng bây giờ chúng mình cần tìm thứ khác
Estragon : Thử xem
Vladimir : Thử xem
…..
Chúng ngẫm nghĩ
Vladimir : Lúc nãy tao nói về cái gì nhỉ ? Chúng mình có thể nhắc
lại
Estragon : Bao
giờ ?
Vladimir : Thoạt
đầu ấy
Estragon: Đầu cái gì
……
Trong những cuộc đối
thoại này, mỗi dòng lại xóa bỏ dòng trước đó, những câu nói này phơi bày một sự
trống rỗng của ngôn từ, xác thực cái hình thành nên bản chất của một thế giới
tâm hồn bên trong đã trở nên phi lí. Sự thiếu vắng logic bên trong đã đặt một
trật tự hỗn loạn khiến con người nghi ngờ những ngôn từ chính họ đang sử dụng.
Ở Trong
khi chờ Godot, ta bắt gặp những “trò chơi” với ngôn ngữ, Estragon và
Vladimir không ngừng tìm kiếm những từ đồng nghĩa, sử dụng những lời nói khoa
học, nghệ thuật bởi chúng nghe có vẻ khoa trương:
Vladimir: Đúng hơn,
phải nói chúng thì thào
Estragon: Chúng lẩm
bẩm
Vladimir: Chúng xào
xạc
Estragon: Chúng lẩm
bẩm
Vladimir: Chúng nói
những gì
Estragon: Chúng nói
về cuộc đời của chúng
…..
Vladimir: Giống như tiếng
lông chim
Estragon: Tiếng lá
cây
Vladimir: Tiếng tro
tàn
Estragon: Tiếng lá
cây
Bằng cách nhại lại kiểu hung biện hoa mĩ và logic của ý nghĩa triết học
thông thường, họ đã phá vỡ những ý nghĩa có thể nhận biết. Trong bài “diễn văn”
khoa trương và lặp lại của Lucky, Beckett đã làm đông cứng những vụn vỡ của
ngôn ngữ lí trí. Tuy nhiên độc bạch của Lucky không đơn thuần là vô nghĩa, sự
rời vỡ và lặp lại trong bài diễn văn này phản chiếu một sự hỗn độn thuộc về trí
tuệ và ngôn ngữ. Bài diễn văn được cấu trúc quẩn quanh bởi những câu và từ trở
đi trở lại, dường như ở đâu có một sự lien hệ giữa bài diễn văn này với tình
trạng của Lucky: Trong hồi II, Lucky mất dấu hiệu cuối cùng liên kết với nhân
loại đó là mất đi khả năng khớp nối ngôn ngữ với ý nghĩ, trở thành một con vật
bị buộc vào một sợi dây thừng nô lệ.
Beckett đã khai thác ngôn ngữ nhằm chiếm hữu khả năng khớp nối trật tự
và hỗn loạn, sự xa đọa của ngôn ngữ dưới ngòi bút của ông trở thành phương tiện
hiệu quả nhất khắc họa nên bắc tranh về tình trạng bi đát của con người.
Ngôn ngữ của kịch Beckett không chỉ tính ở
những đối thoại mà còn là những khoảng im lặng với mật độ không nhỏ, rải rác
trong toàn bộ vở kịch. “Văn bản của Beckett lại hung hồn nhất ở những chỗ vô
nghĩa nhất của lời lẽ cũng như những khoảng trắng, những chỗ trống, những trò
diễn kịch câm”
Trong vở kịch này, xúc tác của đối thoại
là sự im lặng và khoảng dừng. Im lặng và khoảng dừng là yếu tố phá vỡ tính liên
tục của ngôn từ, những khoảng lặng ấy được xếp đặt nhằm mục đích buộc khán giả
phải kết nối và hiểu đươc chúng:
Vladimir: Lá cây cùng
xào xạc một lúc.
Estragon: Mỗi cái lá
nói cho riêng một mình nó
Im lặng
…
Vladimir: Chúng chết là chưa đủ
Estragon : Quả là chưa đủ
Im lặng
….
Vladimir : Chúng mình chờ Godot
Estragon : Quả có thế
Im lặng
….
Những sự im lặng, phân bổ, chia nhỏ cuộc nói chuyện thành từng mảnh, nó rõ
ràng là một phần trong ngôn ngữ của họ và được đọc to lên để được khán giả
nghe. Không chỉ có những khoảng im lặng và dừng giữa đối thoại của hai nhân vật
với nhau mà trong bản thân mỗi chuỗi lời nói phát ra từ một người cũng bị cắt
rời bởi những khoảng im lặng và dừng liên tiếp đó. Chúng ta không rõ sự im lặng
của các nhân vật là để họ suy nghĩ hay làm bất kì hành động gì. Dường như những
khoảng dừng này giúp Beckett miêu tả rõ hơn cái im lặng của sự không thỏa đáng,
khi các nhân vật không tìm được từ họ cần. Đôi khi đó là những im lặng của kiềm
chế, nhẫn nhịn bởi thái độ của người đối thoại hay ý thức rằng không thể phá vỡ
sự cấm kị nào đó. Có khi đó là cái im lặng của sự đè phòng, khi họ chờ đợi sự
đáp lại của người kia để đem lại cho chính họ cảm xúc rằng họ đang tồn tại :
Vladimir : Mai chúng mình phải quay lại đây
Estragon : Để làm gì
Vladimir : Chờ Godot
Estrgon : Ừ nhỉ (Sau một lát). Ông ta chưa đến à
Vladimir : Chưa
…..
Estragon : Hay ta mặc xác ông ấy (Sau một lát). Hay ta không cần ông ta nữa.
…..
Những khoảng im lặng và dừng này để lại cho khán giả một khoảng không gian,
thời gian để họ khám phá khoảng trống tạo giữa những ngôn từ. Họ có thể can
thiệp một cách sáng tạo vào việc thiết lập ý nghĩa của vở kịch. Những khoảng
trống vô hình khiến cho ngôn ngữ càng trở nên phi lí, đẩy sự phi lí của tồn tại
con người lên cao trào.
ð Tiểu kết : Từ việc xây dựng những đối thoại lặp lại và vô nghĩa làm
cho đối thoại của các nhân vật phần lớn bị tiêu hủy, không ăn khớp theo logic
hội thoại và logic lí trí. Những khoảng
im lặng và dừng đã phân bố, chia nhỏ các đối thoại vốn đã hỗn độn càng trở nên
rời rạc hơn. Chính những điều này đã phá vỡ ngôn ngữ thông thường và từ đó dẫn
đến việc phá vỡ xung đột trong vở kịch này.
Trong kịch truyền thống: cơ sở chung của kết cấu kịch truyền thống
là phân chia thành các hồi và cảnh. Bằng cách đó, mỗi thời điểm ứng với sự kiện
được miêu tả ở mỗi hồi nối tiếp với các thời điểm khác nhau. Thời gian được
miêu tả (thời gian thực tại) ứng với thời gian cảm thụ (thời gian nghệ thuật). ở
những thời đại khác nhau trong sáng tác của các kịch gia khác nhau có những
cách xử lí khác nhau về két cấu, cách miêu tả không gian, thời gian của hành động
kịch.
Tuy nhiên, chúng ta không thể nhìn nhận không gian thời gian trong
kịch phi lí của Beckett theo cách chúng ta cảm nhận các yếu tố này trong kịch
truyền thống. Cũng như các yếu tố khác
thuộc bình diện kết cấu tác phẩm, thời gian và không gian của “Trong khi chờ
Godot” cũng bị phá hủy thành những mảnh vỡ, không theo trật tự nào, nhưng lại
thể hiện một trật tự đặc biệt duy nhất: một trật tự tồn tại thiết lập trên nền
tảng hư vô.
Trong
“Trong khi chờ Godot”, bối cảnh không gian và thời gian của hành động có thể xếp
vào loại dễ nhận thấy so với các vở kịch khác của Beckett. Vladimir và Estragon
chờ Godot, nhưng họ không có thông tin cụ thể về cuộc hẹn này. Họ không biết
khi nào ở đâu và ai là người họ đang chờ. Họ không hề trễ hẹn. Tuy nhiên, sự ý
thức về thời gian của họ sớm thay đổi bởi sự can thiệp của một thời gian khác.
Estragon: - Mày biết chắc là chiều nay chứ?
Vladimir: - Cái gì?
Estragon: - Là phải chờ ấy
Vladimir: - Ông ta bảo phải thứ 7. (sau một
lát) Hình như thế
Estragon: - Sau giờ đi làm
Vladimir: - Hình như tao có ghi.(gã lục trong
túi, đầy ắp các thứ bẩn thỉu)
Estragon: - Nhưng thứ 7 nào? Mà hôm nay có
đúng thứ 7 không? Hay hôm nay là chủ nhật? Hay thứ 2? Hay thứ 6?
Beckett xóa mờ thời gian và không gian cơ học
bằng các chi tiết mờ nhạt trong cảnh trí của hành động. Ngày diễn ra cuộc hẹn với
Godot của hai nhân vật là không rõ ràng và sự chắc chắn của họ giảm sút cùng với
mối băn khoăn và hoài nghi. Ngay từ đầu Didi và Gogo đã tranh cãi về chuyện họ
đợi Godo có đúng chôc hay không. Trong khi Vladimir khăng khăng rằng họ đợi
đúng chỗ ngày hôm qua đã đợi thì Estragon lại bảo rằng gã không nhận ra nó. Tại
sao các nhân vật đã lầm ngày trước đó và nếu họ đã đợi đúng chỗ của ngày hôm
qua, tại sao họ không nhận ra cảnh vật? Câu trả lời, ngoại trừ cách giải thích
đơn giản nhất là đổ lỗi cho trí nhớ tồi của họ, thì cuộc sông của họ sẽ luôn là
như vậy, thậm chí ngày hôm nay cũng chẳng ý thức rõ ràng. Sự lặp lại của chi tiếp
lầm lẫn trí nhớ trong vở kịch là bằng chứng về tính chất không quan trọng của
thời gian đối với Vladimir và Estragon
Trong
hai hồi có nhiều chi tiết tương tự nhau, ngày sau cơ bản giống ngày trước chứng
tỏ thời gian với họ là vô nghĩa như Gogo nói ở đầu hồi thứ hai: “Đối với tao
thì bất kể như thế nào cũng là xong”. Điều này cho thấy hắn nhận ra sự vô nghĩa
của thời gian. Mỗi ngày Vladimir và Estragon chờ Godot, và nếu ông ta không đếnvào
ngày đó, họ lại trở lại vào hôm sau. Mỗi ngày họ tiếp tục chờ Godot cho đến khi
hoặc là ông ta đến hoặc là thần chết đến nhưng điều đó không hề quan trọng vì
thời gian là vô nghĩa đối với họ.
Thế
giới của “Trong khi chờ Godot” là một thế giới không có bất cứ khuôn mẫu nào.
Nó là biểu tượng cho hỗn mang-lực lượng thống trị vũ trụ hai kẻ lang thang hằng
ngày đến cùng một nới để đợi Godot, không ai nhớ chính xã điều gì xảy ra vào
hôm trước. Đêm xuống rất nhanh và Godot không bao giờ đến. Sự sắp đặt trong
toàn bộ vở kịch cho thấy thời gian dựa theo tính ngẫu nhiên và do đó đời người
cũng dựa trên sự ngẫu nhiên
Đối
với không gian, cách bài trí đơn điệu trên sân khấu, cảnh vật hầu như không
thay đổi là ám chỉ về tồn tại vô nghĩa , nhàm chán của con người. “Trong khi chờ
Godot” mở ra một khung cảnh ngoài trời ảm đạm. Ở cả hai hồi, khung cảnh đó hầu
như bất dịch: “Một con đường ở nông thôn, có một cái cây. Chiều muộn.” Và trong
suốt diễn biến của vở kịch, khung cảnh này gần như giữ nguyên ngoài sự xuất hiện
của mặt trăng khi đêm xuống.
Tất
cả những hành động ngớ ngẩn của các nhân vật là cố gắng để níu kéo một sự thật
là họ đang chờ đợi một nhân vật mơ hồ mà phần nào trong nhận thức của họ sẽ
không bao giờ đến. Thời gian và không gian trong vở kịch này là một thứ hỗn độn
, vỡ nát và rối loạn.
Beckett xử lí các mạch rời rạc của thời gian
trong cùng một thời điểm, nối chúng vào cùng một cảnh hỗn tạp trong một cái
nhìn bao quát. Điểm nhìn của nhân vật nhảy từ hiện tại đến quá khứ và nhảy trở
lại hiện tại, hành động chuyển từ nơi này sang nơi khác mà không có giới hạn.
thời gian mất đi chiều sâu và dường như bị “không gian hóa”. Toàn bộ hành động
bị biến thành một hỗn hợp phi lịch sử của các sự kiện:
Pozzo:- Mấy giờ rồi?
Estragon:- (Ngước nhìn trời)- Hình như...
Vladimir:- Bảy giờ? Hay Tám giờ...
Estragon:- Còn tùy mùa
Pozzo:- Chiều chưa?
Im lặng. Vladimir và Estragon nhìn mặt trời đang lặn.
Estragon:- Hình như mặt trời đang lên
Vladimir:- Không thể như thế được.
Estragon:- Nếu như kia là bình minh thì sao?
Vladimir:- Đừng nói điều ngu xuẩn. Đó là
phương Tây.
(...)
Hồi II
Trong
khi Estragon khăng khăng mặt trời buổi sáng đang lên thì Vladimir lại khẳng định
là buổi chiều. Nhưng gã cũng không biết chắc về điều đó. Sự mù mờ về thời gian
ném nhân vật vào một vùng hỗn độn lơ lửng của không gian khiến họ không nhận ra
họ đang ở đâu nữa. Lúc này, không chỉ Pozzo mù mà dường như Vladimir và
Estragon đều bị mù. Ý thức về không gian của họ thật tồi tệ. Họ không nhận biết
được chuyển động của mặt trời, phương Đông hay phương Tây nữa. Họ mù hoàn toàn
cho việc xác định cho mình một phương hướng.
Trên
sân khấu thực tế luôn có một độ sâu của thời gian . Khi tấm màn sân khấu được
kéo lên, chúng ta thừa nhận rằng nơi mà chúng ta nhìn thấy trên sân khấu đã ở đấy
trước khi chúng ta nhìn thấy chúng và nó sẽ tiếp tục tồn tại thâm chí sau khi
màn hạ xuống. Tuy nhiên “Trong khi chờ Godot” loại người mà ta thường gặp trong
cuộc sống hằng ngày không tồn tại. Nhân vật của Beckett và thế giới của họ
không có một lịch sử có thể nhận thức được cũng như các mối quan hệ thiết lập
giữa họ. Hành động kịch thực hiện chức năng của nó tring một “hiện tại bất tận”
hay một “chân không” của thời gian ở đó nó được lấp đầy bởi những câu hỏi không
có câu trả lời hợp lí.
Estragon :- tao với mày đi đâu bây giờ
Vladimir:- Gần thôi
Estragon:- Không. Tao với mày sẽ đi thật xa
nơi này được chứ?
Vladimir:- Không được
Estrgon:- Tại sao
Vladimir:- Mai chúng mình phải quay lại đây
Estrgon:- Để làm gì
Vladimir:- Chờ Godot
Estragon: - Ừ nhỉ (sau một lát). Ông ta chưa
đến à?
Vladimir: - Chưa
( Hồi I)
Với
“Trong khi chờ Godot”, Beckett đã giảm gần như mức tối đa những cái quen thuộc,
để cho cái lạ, sự khác biệt lấn át hành động. Nhân vật của ông được đặt trong một
thế giới đổ vỡ và trần trụi, xa lạ với chính bản thân họ. Họ không ý thức được
về chính họ. “Phải chờ Godot” là câu nói lặp đi lặp lại rất nhiều lần của các
nhân vật. Nhưng Godot là ai, bao giờ ông ta đến thì họ hoàn toàn không rõ. Sân
khấu ở đây dường như tồn tại trong một cơn ác mộng, ở đó có sự tồn tại của con
người trở nên mơ hồ và hành động của họ không được kiểm soát bởi ý thức:
Estragon : - Thế nào, ta đến đó chứ?
Vladimir :- Mày kéo quần lên
Estragon:- Cái gì?
Vladimir: - Kéo quần
Estragon : - Mày bảo tao cởi quần à?
Vladimir: - Kéo quần lên
Estragon :- Ừ nhỉ
(Hồi
II)
Nhân vật
ở đây đã được đơn giản hóa những đặc tính hài hước trần trụi của họ được cường
điệu hóa quá mức. Thế nhưng sự mạnh mẽ của nhân vật như một đại diện của bất ổn
thường trực, sự loạng choạng của con người trong ngục tù của không gian và thời
gian; hỗn loạn, quay cuồng bởi những bí ẩn của chết chóc, tậm điểm của hoang
mang và nỗi đau thường nhật.
Các nhân
vật trong “Trong khi chờ Godot” không ý thức được về thời gian và những gì đã
diễn ra. Thời gian đối với các nhân vật không được chia thành quá khứ, hiện tại
và tương lai. Nó cũng không phải là một tiến trình nhất quán, tuyến tính. Nó rời
rạc và chắp vá. Cuộc sống là một sự liên tục của thời gian nhưng cũng có thể là
một chốc lát ngắn ngủi. Và thời gian của các nhân vật ở đây cũng vậy.
Vừa trôi
chảy vừa đứng yên, vừa tuần hoàn vừa ngưng đọng, thời gian trong vở kịch cũng lại
là biểu tượng cho một thế giới đang chết, khi mà nhân loại đi đâu, làm gì rồi
cũng trở vè điểm xuất phát, trong một hông gian cũng đã trở nên bất định.
“Trong khi chờ Godot đã nói lên sự thất bại của con người trong mênh mông hư ảo
của không gian và thời gian.
Cũng như đối với thời gian, Beckett áp dụng
cùng một cách xử lí với không gian. Sân
khấu của “Trong khi chờ Godot” tồn tại trong một không gian trống rỗng về ý
nghĩa lịch sử khi danh từ riêng và địa điểm được sử dụng cho một cảnh cụ thể
hàu như là những từ có thể thay đổi bởi bất cứ từ nào khác. Chúng thật khó có
thể có được mối quan hệ với một cái tên hay một sự vật nào trong thế giới của
chúng:
Estragon:- Chỗ này tuyệt vời! (Gã quay gót, tiến sát hàng
đèn chân, nhìn về khán giả) Toàn những bộ mặt tươi vui (Gã quay về phía
Vladimir) Ta đi được chứ?
Vladimir:- Không được
Estragon:- Tại sao?
Vladimir:- Còn phải chờ Godot
Estragon:-Ừ nhỉ (Sau một lát) Mày biết chắc là ở chỗ này
chứ?
Vladimir:- Cái gì?
Estragon:- Là cần phải chờ ở đây
Vladimir:- Ông ta
nói là ở trước một cái cây. (Cả hai nhìn cái cây) Mày có nhìn thấy những cái
cây khác chứ?
(Hồi II)
Cái “ở đây” mà Vladimir nhận ra trong giây phút như là nơi gặp gỡ
Godot không có định danh. Nhà viết kịch không chỉ ra bất cứ nét đặc thù nào
ngoài một cái cây và một bãi hoang. Pozzo và Lucky không nhớ “ngày hôm qua”,
đôi giày khác màu và đã chật hơn, cậu bé đưa tin thì quả quyết chưa hề gặp họ.
Không gian mà họ tưởng như quen thuộc cũng trở nên mơ hồ xa lạ. Họ nghi ngờ trí
nhớ và khả năng nhận biết và ghi nhớ của
mình. Sân khấu của Beckett bỗng trở nên trống rỗng, độc lập, không có sự kết nối
cần thiết với thế giới, nơi họ được tìm ra.
Trên sân khấu truyền thống, nhân vật
được kết với vật thể và môi trường của họ. Sự vật và môi trường để lộ ra rất
nhiều và ngược lại. ztrong “Ham let” sân thượng hay một gian phong trong lâu
đài có liên quan tới xã hội mà nó thuộc về. Trong “Romeo và Juliet” cái ban
công và khu vườn là thế giới riêng của đôi tình nhân. Mọi thứ trên sân khấu được
đóng khung trong một cảnh đầy ý nghĩa. Beckett sân khấu trong sự phá hủy, mà ở
đó chức năng và mọi biểu hiện bị xóa sạch. Ngôn ngữ, sự sắp đặt, nhân vật và
các vật thể trên sân khấu của ông tập
trung ở trạng thái gần như thiếu vắng cái thế giới mà chúng muốn biểu hiện.
Trong kịch truyền thống có sự đến và rời đi. Sân khấu là không gian mở và
thoáng. Sân khấu của Beckett là một không gian khép kín và bất định dạng.Sân khấu
là một thế giới hoàn toàn trông trải. Hành trình của họ không tiến lên cũng
không lùi lại, không ai trong họ đến đích cả.
Vladimir:
- Vậy ta đi chứ?
Estragon:-
Ừ, đi
Chúng không hề nhúc nhích
Nếu như đối với thời gian, Beckett dồn nhiều tình tiết
vào những sự kiện khác nhau vào cùng một tình huống biến thành hỗn hợp phi lịch
sử thì ông cũng làm vậy đối với không gian. Không gian của “Trong chờ Godot’
thiếu vắng những hiện hữu quen thuộc. Beckett bày ra trước mắt người đọc thế giới
sự vật, đồ vật đơn giản nhưng đầy ám ảnh. Nếu như kịch truyền thống, khán giả
được chứng kiến một thế giới y như thật thì trong kịch của Beckett sự rập khuôn
này đã giảm tới mức tối đa. Nó là sự hiện hữu thiếu vắng sự hiện diện của sự sống,
báo hiệu một tồn tại phi lý của con người. Estragon ngủ quen trong cái hố, Lucky vác lỉnh kỉnh những
vali đồ đạc cổ quấn dây thừng đến trơ cả thịt. Cảnh vật gây kinh hãi có thể khiến
cho khán giả bị sốc, nhưng rõ ràng Beckett muốn trình diễn trước chúng ta một nỗi
khắc khoải của con người trên mặt đất, không có sự chống đỡ nào khác ngoài sự
chông đỡ bi hài mong thời gian trôi qua.
ð Tiểu kết : Kịch của Beckett dẫn độc giả
khán giả vào một thế giới xa lạ nơi họ bắt gặp những con người bị thui chột
giác quan. Beckett phá hủy lịch sử của nhân vật, đặt họ tồn tại trong không
gian, thời gian mà ở đó thời gian và không gian không còn là yếu tố để nhận thức
sự hiện hữu của chính họ. Chính điều này là nhân tố quan trọng để phá vỡ xung đột
trong vở kịch này.
Nhắc đến Beckett, người ta nhắc đến “Trong khi chờ Godot”. Nhắc đến
Beckett, người ta nhắc đến kịch phi lí, nhớ đến cảnh những gã lang thang vật vờ
tên cánh đồng hoang, đợi chờ và tuyệt vọng. Ai đó phán xết ông là bi quan, là kẻ thui chột
niềm tin. Thế nhưng ai đó cũng nói rằng tác phẩm này hay nhiều tác phẩm kịch
phi lí khác, ra đời như một tiếng kêu thức tỉnh cả nhân loại đang tê liệt trong
cơn ác mộng của cuộc sống thường nhật. Mục đích của đời người là một câu hỏi
không hồi đáp. Beckett đã trăn trở tìm câu trả lời và bế tắc. Ông thể hiện sự bất
lực của mình vào các tác phẩm.
Dù hai hồi hay trăm hồi, “trong khi chờ Godot” cũng sẽ lặp lại chừng ấy
hành động, chừng ấy sự kiện, chừng ấy con người. Không xung đột, không cốt truyện,
không tính cách ngoài hai gã lang thang mỗi ngày đến dưới cái cây và chờ Godot.
Godot không đến, họ muốn rời đi nhưng vẫn đứng lại. Vở kịch là một vòng tròn đến
bất tận với những ám ảnh và trùng trùng điệp điệp với những biểu tượng và cuộc
sống của con người.
Những tiếng nói rời rạc và bất tận lặp lại như những tiếng vang của nữ
thần Echo, tuyệt vọng và vô nghĩa. Những khoảng lặng liên tiếp đẩy chúng ta vào
một vực thẳm sâu hun hút đầy những tiếng nói không lời, vô thanh nhưng lại hữu
thanh.
Thời gian thì vô nghĩa cũng như đời người là vô nghĩa. Con người sống
trong một hiện tại bất tận ở đó họ bị ném vào một không gian trống rỗng, một
vùng mênh mông tăm tối không lối thoát nhưng không phải là lại lẫm.
“Trong khi chờ Godot” là một tác phẩm kịch phi lí, do vậy nó mang đầy đủ
đặc trưng của thể loại kịch này và đi lại tất cả những quy tắc, đặc điểm của kịch
truyền thống. Và dẫu Becket đã cố gắng để bỏ qua ngôn ngữ thì “Trong khi chờ
Godot” vẫn “ấp úng” tiếng nói rời rạc của mình để cất tiếng về đời sống- một đời
sống ở đó con ngừi bị tha hóa và chịu đọa đầy. Đó là lí do tại sao vở kịch góp
công đưa Beckett đến bục vinh quang của giải Nobel- giải thưởng chỉ dành cho những
người có cống hiến xuất sắc cho một nhân loại hòa bình, tiến bộ và cũng là một
nhân loại đau khổ muôn đời.
Danh
mục tài liệu tham khảo
1. Nhiều tác giả, Giáo trình văn học phương Tây, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2015.
2. Lê Nguyên Cẩn, 2011, Đọc lại En Attendant Godot của Beckett, Tạp chí khoa học, Số 9,
T.26-33.
3.
Nguyễn Thùy Linh, 2011, Những nhân vật mặc đồng phục trong kịch Samuel Beckett, Tạp chí văn
học nước ngoài, Số 3, T.150-158.
4. Lê Nguyên Cẩn, 2004, Kịch phi lí và kịch truyền thống- từ cái nhìn so sánh, Tạp chí
khoa học, Số 5, T.15-21 .
5.
Kiều Nga, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn: Những mô-tip trong “Chờ Godot”, “Những ngày tươi đẹp” và “Tàn cuộc” của
Samuel Becket, Hà Nội, 2007.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét