Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

Tinh thần nhân văn trong tác phẩm “Người lái buôn thành Vơnidơ”- Shakespeare

MÔN:THỂ LOẠI VÀ TÁC GIA TIÊU BIỂU    VĂN HỌC TÂY ÂU – MỸ
Giảng viên: Nguyễn Linh Chi

Đề tài: Tinh thần nhân văn trong tác phẩm “Người lái buôn thành Vơnidơ”- Shakespeare.




Tên nhóm : Nhóm 2
1: Nguyễn Thị Huế             B-k64
 2: Nguyễn Thị Lan Hương B-k64
 3: Dương Thị Quỳnh Lan   B-k64
4: Đỗ Thị Khánh Hường     B-k64
5: Trần Thị CảnhA-k64
6: Nguyễn Thị Hoa            A-k64




MỤC LỤC
2.1.          Cảm hứng ca ngợi 12
2.2.         Cảm hứng phê phán 25


 

 

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

WILLIAM SHAKESPEARE  nhà viết kịch, nhà thơ, nhà nhân đạo vĩ đại của văn chương nghệ thuật Anh thời Phục Hưng. Ông sinh ngày 23/04/1564 ở Stratford trên sông Evon. Đây là một thị trấn nằm ở miền Trung nước Anh. Ông sinh ra trong một gia đình thị dân khá giả, cha là thương nhân len dạ, có thời kì được nhân dân tính nhiệm bầu làm Thị trưởng luôn mấy nhiệm kì nhưng dần dần sa sút.
Lên 7 tuổi, ông học trường Grammar school ở ngay thị trấn.Đây là loại trường Tiểu và Trung học kết hợp, khá phổ biến thời đó ở Anh. Trường dạy các kiến thức phổ thông, tiếng Hi Lạp, tiếng La Tinh, ngữ pháp và một ít văn chương cổ đại Hi Lạp, La Mã. Nhưng Shakespeare không theo được hết chương trình. Năm 14 tuổi vì gia đình sa sút nợ nần, bố cũng đã mất chức Thị trưởng. Từ đây,Shakespeare phải tự mình lăn lộn với đời để kiếm sống và nâng cao trình độ học vấn bằng con đường tự học. Ông tự học trong sách vở và cuộc sống ngoài xã hội.
Năm 18 tuổi ông cưới vợ là một phụ nữ lớn hơn ông 8 tuổi, có ba con.Năm 1585 ông rời quê lên Luân Đôn đang lúc kịch trường Luân Đôn tới hồi sôi nổi.
Bước đầu ông xin làm chân giữ ngựa, soát vé ở cổng hí kịch.Sau đó làm nghề nhắc tuồng, thợ sửa bản in, dần dần lên làm diễn viên, đạo diễn và nhà viết kịch.Lợi tức từ rạp hát là nguồn sống suốt đời của ông.Khi đời sống đã khá giả, ông củng cố địa vị bằng cách mua một chức quý tộc nhỏ.Cũng thời gian này, Shakespearequen biết bá tước Southamton là người hào hiệp giúp đỡ ông rất nhiều.Và đặc biệt ông đã quen được một người bạn Ý là Giovani Florio. Ông này đã giúp ông hiểu thêm văn học Phục hưng ở Pháp và Ý cuộc sống đang êm đềm thì xảy ra biến cố vụ án Esex và Southamton (1601). Southamton bị kết tội dấy loạn chống triều đình nữ hoàng Êlizabet, do đó Shakespeare cũng bị tình nghi dính líu và việc đó diễn ra trước hôm vở Richard II được trình diễn. Essex bị chặt đầu còn Southamton bị tù chung thân cònShakespeare trốn biệt. Đến năm 1603 Elizabet chết, Jaque VI lên ngôi, xưng là James. Sau đó, Southamton được trả tự do và trọng dụng. Shakespearexuất hiện trở lại ông về với đoàn kịch của mình là Nhà hát Địa cầu được thành lập năm 1599.Mười năm sau (1609), ông cho diễn kịch ở rạp hát có mái che Blachfơraiơ (Blackfriars), đó là những sự kiện quan trọng, vì trước đó kịch thường biểu diễn ở ngoài trời.Khoảng 1612, Shakespeare từ giã sân khấu về sống ở quê nhà. Sự nghiệp sáng tác của Shakespearekhá đồ sộ. Về thơ có: Vinơt và Ơđâunit (1593), Vụ cưỡng hiếp Lucrixơ (1594), tập thơ trữ tình gồm 154 bài xonê (1593 - 97), in năm 1609. Về kịch có 37 vở.
Năm 1612 Shakespeare rời Luân Đôn sau ¼ thế kỷ hoạt động sân khấu.Trở về Stratford để sống những năm cuối đời.Ông mất ngày 23/4/1616.
Có thể nói, Sêcxpia xuất thân từ tầng lớp bình dân trong xã hội và không có điều kiện học tập. Nhưng bằng nghị lực của mình ông đã không ngừng tự học và vươn lên trong cuộc sống để trở thành nhà viết kịch thiên tài, người đại diện vĩ đại cho nền văn học Phục hưng Anh. Chính điều đó, Shakespeare đã làm cho con người cùng thời ông phải bất ngờ và thán phục. Đồng thời ông cũng là một tấm gương về tinh thần lao động và học tập nghiêm túc cho mọi thế hệ học tập và nôi theo. 

1.2 Sự nghiệp

Shakespeare không chỉ là ngôi sao sáng trong nền văn nghệ nước Anh mà còn là cây đại thụ của nền văn học thế giới. Trên con đường sáng tác của mình ông đã để lại cho nền văn học nhân loại nói chung và kịch Anh nói riêng gần 40 vở kịch, 2 bản trường ca, một tập 154 bài xonnê. Quá trình sáng tác của ông chia làm ba giai đoạn:
*Giai đoạn 1 (1590-1600):
Đây là giai đoạn của những hài kịch hay nhất thể hiện cái nhìn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống. Không khí lạc quan nhân văn chủ nghĩa bao trùm lên tất cả các sáng tác của ông trong giai đoạn này. Đồng thời thể hiện niềm tin vào khả năng con người có thể giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội và cuộc sống theo hướng tươi sáng tích cực nhất. Các vở hài kịch tiêu biểu: Hài kịch của những hiểu lầm (1592), Giấc mộng đêm hè (1595), chàng thương gia thành Vơnizơ (1596), Ầm ĩ vì chuyện không đâu (1598), Những bà vui tính ở Uynxo (1598), Đêm thứ mười hai (1600).
Bên cạnh các vở hài kịch ở giai đoạn này ông còn sáng tác các vở kịch lịch sử phản ánh quá trình đấu tranh chống phong kiến địa phương để tiến tới xây dựng nền quân chủ chuyên chế. Đồng thời, qua các vở kịch lịch sử cũng thể hiện khá rõ quan điểm chính trị của Shakespearelà tán thành chính thể quân chủ chuyên chế vì nó là biểu hiện của sự thống nhất quốc gia mở ra thời kì “nước Anh vui vẻ” điều mà ông và cả nhân dân Anh chờ đợi . Các vở kịch lịch sử tiêu biểu của giai đoạn này như: Hen-ri IV (1590-1591), Ri-Sơt III (1592),Ri-sơtII (1595),Vua Giôn(1596), Hen-ri V(1598), Hen-Ri VI (1597).
Đặc biệt ở cuối giai đoạn này ông còn cho ra đời vở bi kịch “Rômêô và Jiuliet”. Đây là một trong số những vở bi kịch vĩ đại của ông góp phần khẳng định vị thế củaShakespeare trong kịch trường thế giới nói chung và nước Anh nói riêng.
*Giai đoạn 2: Từ 1601-1608
Đây là giai đoạn trải qua những chấn động dữ dội của đời sống xã hội, nên không khí lạc quan yêu đời, yêu người không còn nữa mà thay vào đó là sự phê phán những mặt đen tối, những cái xấu xa, lên án tội ác cường quyền, bạo lực và nêu bậc sự khủng hoảng bế tắc của xã hội thời đại Đây là giai đoạn ra đời các vở bi kịch tuyệt tác của ông. Tuy nhiên dù tất cả những xung đột bi kịch trong thời kì này dường như bế tắc nhưng không dẫn đến sự bi quan trong ông. Trái lại Shakespearesay sưa tìm kiếm những lối thoát cho bi kịch của mình. Bởi trong Shakespeareluôn tồn tại một niềm tin, niềm tin vào con người, vào sự thắng lợi cuối cùng của những nguyên lí tốt đẹp trong đời sống. Và hướng giải quyết các mâu thuẫn đó không dừng lại ở sự hài hòa nữa mà nó đòi hỏi sự đấu tranh đến cùng để phân chia ranh giới rạch ròi.
Sáng tác trong giai đoạn này có các tác phẩm bi kịch tiêu biểu như: Hămlet (1601), Tơ-rôi-lơt va Cre-xi-da, Mọi việc tốt lành nếu kết thúc tốt lành (1602), Mẹo đối mưu, Ô-ten-lô(1604), Vua Lia, Măcbet (1605), Antôni và Cleopat (1606), Cô-ri-ô-la-nơx, Tai-mơn ở Aten (1607), Pê-ri-cơ-lex (1608).
*Giai đoạn 3: Từ 1609-1613
Đây là giai đoạnShakespeare quay trở về con đường tìm kiếm một giải pháp lạc quan cho các mâu thuẫn xã hội. Nhưng vì hiện thực cuộc sống thời Shakespearekhông có tiền đề trực tiếp cho sự thắng thế của công lí và điều thiện. Vì vậy những tác phẩm của giai đoạn này là những vở mang màu sắc mơ màng, thần thoại, kết thúc vui vẻ nhưng tính chất bi kịch vẫn còn đậm nét, vẫn mang nội dung phê phán xã hội nhưng kín đáo, nhẹ nhàng hơn.
Giai đoạn này có các sáng tác phẩm tiêu biểu như: Xim-bơ-lin (1609), Câu chuyện mùa đông (1610), Bão táp (1612).

2. Tác phẩm

2.1. Giới thiệu sơ lược tác phẩm

   Vở hài kịch trên này được Shakespearesáng tác ở giai đoạn thứ nhất (1590-1600). Đây được xem là giai đoạn của những vở hài kịch hay nhất và mang đậm màu sắc nhân văn chủ nghĩa. Vở hài kịch trên được Shakespeareviết trong bối cảnh lịch sử nước Anh thống nhất về mọi mặt và đang vươn lên thành một cường quốc số một ở Châu Âu. Bên cạnh đó là sự thắng thế của phong trào văn hóa Phục Hưng ở Châu Âu nói chung và ở nước Anh nói riêng đã góp phần tiêu diệt những tư tưởng phản tiến bộ của Trung cổ phong kiến và nhà thờ. Mở ra thời đại mới đó là thời đại Phục Hưng. Ở thời đại này, con người được giải phóng về tinh thần, được sống với những gì thuộc về quyền lợi cá nhân con người và con người cũng nhận ra rằng cuộc sống nơi trần thế đáng quý. Chính những điều nói trên đã mang lại không khí lạc quan vui vẻ, yêu đời trong các vở hài kịch được Shakespearesáng tác trong thời kì đầu nói chung và vở hài kịch này nói riêng.
Vở hài kịch tập trung thể hiện đề tài tình yêu và đề tài đề tài tình bạn. Thông qua đó tác giả lên án những gì phản lại tự nhiên cổ hủ, đó là những luân lí đạo đức những thành kiến của xã hội phong kiến. Đồng thời tác giả còn thể hiện chủ đề tố cáo xã hội tư bản xã hội mà đồng tiền có sức mạnh chi phối mọi giá trị vật chất và tinh thần. Và nổi bật là chủ đề sự thắng thế của những tình cảm cao đẹp tình yêu thương con người.

2.2. Tóm tắt

Basaniô là một quý tộc trẻ,có học.Bạn thân là Antôniô một thương gia giàu có và hào hiệp ở Vơnidơ.Basaniô cần tiền để cưới vợ là công nương Póocxia xinh đẹp và anh đã đến nhờ Antônio giúp đỡ.Antôniô không sẵn tiền mặt vì tất cả tài sản của chàng đang lênh đênh trên ba chiếc thuyền buôn chưa về.Vì thế Antôniô phải đến vay tiền của lão Sailốc- một lão Do Thái nổi tiếng keo kiệt và tàn nhẫn với số tiền là ba nghìn đuyca.Sailốc xưa nay vẫn căm ghét Antôniô vì chàng đã làm hắn thua thiệt rất nhiều và đã làm nhục hắn, nhổ nước bọt vào mặt hắn, xúc phạm đến dân tộc hắn. Chính vì thế, hắn cho Antôniô vay tiền không lấy lãi, nhưng chàng phải chấp nhận điều kiện vô cùng độc ác của hắn là nếu sau ba tháng không trả được nợ thì hắn có quyền xẻo một cân thịt trên thân thể người vay nợ.
Nàng Póocxia là một người con gái hiếu thảo mặc dù nàng đã yêu Basaniô nhưng nàng vẫn thực hiện đúng chúc thư của cha là để cho những người đến cầu hôn phải chọn đúng chiếc hòm bên trong đựng chân dung nàng mới được kết duyên cùng nàng. Ông hoàng Marốc chọn cái hòn vàng mở ra chỉ thấy có đầu lâu và tờ thư châm biếm. Ông hoàng xứ Aragông chọn cái hộp bạc trong chỉ có chân dung thằng ngốc với một bài thơ hài hước. Basaniô chọn hòm chì mở ra là chân dung nàng Póoxia xinh đẹp và chàng đã có được hạnh phúc.
Hạn nợ đã đến mà Antôniô không có tiền trả vì những chiếc thuyền buôn đều gặp nạn.Sailốc kiện ra tòa.Ở tòa, mọi người đều khuyên hắn nên có lòng thương người nhưng hắn khăng khăng thực hiện đúng bản cam kết. Nghe tin Antôniô gặp nạn Basaniô cùng Graxianô tức tốc về Vơnidơ và anh về đúng lúc phiên tòa đang bế tắc, Basaniô đồng ý trả gấp đôi thậm chí gấp mười lần số tiền Antôniô vay nhưng hắn không đồng ý. Được ông anh họ viết thư ủy nhiệm , Póocxia cải trang thành tiến sĩ luật khoa , nàng Nerixa cải trang thành viên thư kí. Hai nàng đã được thống lĩnh mời vào ghế quan tòa. Póocxia sau nhiều lần khuyên Sailốc không thành nàng cho hắn thực hiện đúng văn khế và phải cắt đúng một cân thịt không hơn không kém mà không làm chảy một giọt máu nào. Sailốc thua kiện và bị tịch thu hết tài sản.
Kết thúc phiên tòa hai vị luật sư khéo léo xin được nhẫn của Basaniô và Graxianô. Trở về đời thường hai nàng hỏi đức lang quân về nhẫn đính hôn và tỏ ý giận dỗi. Cuối cùng Porxia đưa thư ủy nhiệm của anh họ thì Basanio mới biết rõ sự thật bàng hoàng khâm phục người yêu. Cùng lúc đó thì tin ba thuyền buôn của Antonio cập cảng và đầy ắp hàng hóa.

II. Tinh thần nhân văn trong tác phẩm Người lái buôn thành Vơnidơ

1.Khái niệm tinh thần nhân văn

* Chủ nghĩa nhân văn
 Thời đại Phục hưng là một thời đại vĩ đại và to lớn. Nổi bật ở thời đại này là cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng do giai cấp tư sản lãnh đạo đã đưa đến thắng lợi rực rỡ đánh dấu bước nhảy vọt của tư tưởng con người trong quá trình tự giải phóng. Và tư tưởng trung tâm của thời đại Phục hưng là chủ nghĩa nhân văn. Đây là trào lưu tư tưởng tiến bộ nhất, tạo nên giá trị sáng ngời của nền văn nghệ Phục hưng.
Chủ nghĩa nhân văn tìm thấy ở thời cổ đại đặc biệt là ở cổ đại Hi Lạp tinh thần trân trọng con người, coi con người là quý, cuộc sống nơi trần thế là đáng trân trọng. Chủ nghĩa nhân văn đã tiếp thu tinh thần đó và đã phát triển nó cho phù hợp với con người thời đại mình. Tất cả những cái gì chống lại con người kìm hãm tự do của con người đều bị lên án. Mặt khác, nó còn ca ngợi những gì thuộc về quyền sống tự nhiên của con người. Chính vì thế, chủ nghĩa nhân văn được định nghĩa như sau:
Theo Vôn ghin, chủ nghĩa nhân văn: “là toàn bộ những quan điểm đạo đức, chính trị bắt nguồn không phải từ cái gì siêu nhiên kì ảo, từ những nguyên lý ngoài nhân loại mà chính từ con người tồn tại thực tế trên trái đất, với những nhu cầu và khả năng trần thế và hiện thực của nó. Những nhu cầu, những khả năng ấy đòi hỏi phải được phát triển đầy đủ và thỏa mãn”.
Từ định nghĩa trên cho thấy sự tiến bộ của tư tưởng này, chủ nghĩa nhân văn đã giúp cho con người thời đại nhận ra Trung cổ phong kiến và nhà thờ truyền bá một thứ nhân sinh quan rất mực đen tối và thê lương. Nhằm thống trị con người về mặt tinh thần, họ truyền bá tư tưởng diệt dục, xem cõi đời là bể khổ, con người khi sinh ra đã mang tội lỗi. Chính vì thế, con người phải sống khổ hạnh chịu đọa đày phần xác để cứu lấy phần hồn. Và Họ cho rằng cõi đời là “một thung lũng nước mắt”, “Thiên đường” mới là cuộc sống đáng hướng tới. Đó là những tư tưởng phản tự nhiên nhằm chống lại con người. Chính vì vậy, con người cần phải nhận ra và tiêu diệt nhân sinh quan phản tiến bộ đó.
Chính từ những nhiệm vụ trên mà chủ nghĩa nhân văn xoay quanh hai nội dung chính đó là tấm lòng trân trọng con người như Prôtagôrax thâu tóm trong định nghĩa nổi tiếng: “con người là kiểu mẫu và kích thước để đo lường vạn vật”. Con người đáng được tin yêu, như nhân vật Hamlet đã nói: “kì diệu thay là con người, Nó cao quý làm sao về mặt lý trí, vô tận làm sao về mặt năng khiếu, về hình dung và dáng điệu nó mới giàu ý nghĩa làm sao. Về hành động nó thật như thiên thần, về nhận thức nó chẳng kém gì thượng đế, thật là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của muôn loài”. Bên cạnh đó chủ nghĩa nhân văn còn ca ngợi trần gian là thực tế đáng sống: con người phải sống lạc quan yêu đời. Văn học Phục hưng là văn học lạc quan và tin vào con người.
Cũng như các nước Italia, Pháp, Đức, Tây Ban Nha... nước Anh cũng tiếp thu trào lưu tư tưởng tiến bộ trên nhưng chủ nghĩa nhân văn ở Anh phát triển chậm hơn so với các nước trên. Nhưng chính vì vậy mà nước Anh lại có điều kiện tiếp thu những tinh hoa của nền văn học các nước đi trước. Chính điều đó đã mang lại cho nền văn hóa Phục hưng Anh nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng có những bước phát triển rực rỡ vượt bật so với các nước đi trước.  
* Tinh thần nhân văn
Tinh thần nhân văn trong thời đại Phục hưng bắt nguồn từ những môn khoa học nhân văn: đạo đức, hùng biện, tư tưởng…Người dạy những môn học đó là người nhân văn.
Nếu khoa học tự nhiên ở thời kì này dạy kĩ năng nắm bắt làm nghề, thì khoa học nhân văn chỉ dạy làm người. Khi học xong làm người có tính người- có nghĩa là khả năng tinh tế nhạy cảm của con người trước cuộc sống , là khả năng ứng xử với con người xung quanh.
ð Hướng tới cuộc sống trần tục thực tiễn cuộc sống.
Thuật ngữ nhân văn trong tiếng Anh là Human culture.Trong đó,Human là con người, những gì thuộc con người.Còn Culture là văn hóa, nền văn hóa.Như vậy, Human culture là văn hóa của con người, thuộc về con người.Mà nói đến văn hóa là nói đến những gì tốt đẹp, đặc trưng nhất cần được gìn giữ, phát huy. Do đó,  Human culture còn được hiểu là khái niệm dùng để nói đến vẻ đẹp, nét đẹp của con người.
 Trong từ điển Hán Việt thì nhân văn được chiết tự như sau: nhân là người, văn là vẻ đẹp. Vậy, nói đến nhân văn chính là nói đến vẻ đẹp của con người.
Như vậy, thuật ngữ tinh thần nhân văn là một thuật ngữ dùng trong văn chương mà nó lấy nét đẹp con người làm đối tượng chủ yếu để thể hiện. Nó đề cao vẻ đẹp của con người và lấy nó làm tiêu chuẩn để nhìn nhận, đánh giá về sự vật, hiện tượng theo xu hướng bảo vệ cái đẹp, cái cao cả của con người. Nó xuất phát từ tấm lòng yêu thương, tin tưởng và ca ngợi vẻ đẹp của con người về cả ngoại hình lẫn nhân cách, về trí tuệ lẫn tâm hồn, về ước mơ lẫn hành động. Xem đó như là khởi nguồn cho mọi ý tưởng sáng tạo.

2.Tinh thần nhân văn trong tác phẩm “Người lái buôn thành Vơnidơ”

 Người lái buôn thành Vơnidơlà một trong số những vở hài kịch tình yêu hay nhất của tác giả. Mạch cảm hứng sáng tạo chủ yếu trong vở hài kịch này là tinh thần nhân văn. Đây là mạch cảm xúc mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm. Nó lấy vẻ đẹp con người làm đối tượng chủ yếu để khai thác và thể hiện. Nó đề cao vẻ đẹp của con người và lấy vẻ đẹp đó làm tiêu chuẩn để nhìn nhận, đánh giá về sự vật, hiện tượng theo xu hướng bảo vệ cái đẹp, cái cao cả của con người. Cội nguồn của cảm hứng nhân văn đó là xuất phát từ tấm lòng yêu thương, tin tưởng và ca ngợi vẻ đẹp của con người về cả ngoại hình lẫn nhân cách, về trí tuệ lẫn tâm hồn, về ước mơ và hành động. Xem đó như là khởi nguồn cho mọi ý tưởng sáng tạo. Chính vì thế, mà tinh thần nhân văn luôn có mặt trong mọi nền văn học và trong từng thời kì từng giai đoạn văn học khác nhau mà nó biểu hiện ít hay nhiều. Và tinh thần nhân văn được thể hiện ở hai phương diện đó là tấm lòng ca ngợi, trân trọng dành cho con người và tấm lòng tin yêu, lạc quan đối với cuộc sống và cảm hứng phê phán xã hội hội phong kiến, xã hội tích lũy tư bản. Chính những tư tưởng tiến bộ trên đã làm nên sức sống lâu bền cho các sáng tác của Shakespeare nói chung và vở kịch này nói riêng.

2.1. Cảm hứng ca ngợi

2.1.1. Ca ngợi vẻ đẹp con người

Qua vở hài kịch, ta thấy các nhân vật hiện lên đều là những con người có cả nét đẹp ngoại hình lẫn nét đẹp tâm hồn. Hầu hết các nhân vật nữ trong vở hài kịch đều là những trang tuyệt sắc khiến cho các chàng trai phải say đắm trước vẻ đẹp của các nàng. Và hầu hết các chàng trai đều là những người có tấm lòng cao thượng sống chân thành trong tình yêu, tình bạn.
Ở vở hài kịch Người lái buôn thành Vơnidơ tác giả ca ngợi vẻ đẹp của con người như: vẻ đẹp ngoại hình, vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp trí tuệ qua hình tượng các nhân vật đại diện cho chủ nghĩa nhân văn. Mà tiêu biểu là hình tượng nàng Poócxia xinh đẹp thông minh tài trí.Trước Shakespeare trong văn học đã nói đến đàn bà. Nhưng con người đàn bà củaShakespeare có những điều khác hẳn so với con người đàn bà từ trước đến bây giờ. Trước khi xuất hiện Juliet đã có Mêđê, Antigon: Feđrơ của Hy lạp, Điđô của La mã,Lôra của thời Phục hưng Ý. Nhưng những con người Hy lạp và La mã là những con người chịu đựng: họ đón lấy tình yêu như đón lấy một thứ định mệnh phá hoại đời họ mà họ không sao cưỡng nổi. Những con người đàn bà của thời Phục hưng Ý tuy đầy chất men của cuộc sống, nhưng vẫn mang tính chất lí tưởng hoá chưa hoàn toàn thoát khỏi hào quang gia tô giáo. Và sau Shakespeare những cô Simen, Juni, Feđrơ vẫn là nhưng người dè dặt.Họ sợ thành kiến, họ bị dục vọng thúc đẩy, nhưng thực ra không dám làm chủ, nhận lấy trách nhiệm đối với cuộc sống của mình. Muốn tìm con người đà bà gan góc và bướng bỉnh, luôn luôn chiến đấu thà chết chứ không chịu hàng, hạng người đàn bà sinh ra để lmf cbủ cuộc đời, “rất phiền cho xã hội phong kiến”, điểm đặc biệt của họ là họ hành động không phải vì “con ma” dục vọng xô đẩy, trái lại họ hành động với ý thức đầy đủ, sáng suốt, và phải làm thế mới thực hiện được giá trị con người, mới đại diện cho lý trí của con người thì phải tìm ởShakespeare . Có thể nói đề tài cơ bản của Shakespeare là cuộc đấu tranh của thế hệ mới khao khát tự do, mà hiện thân của nó là những cô gái yêu đời, và tác giả bao giờ cũng đứng về phía họ…Chỗ làm họ sáng ngời tinh thần nhân văn không phải là cái dục vọng, tình yêu tha thiết của họ- cái đó trước đây đã có và Shakespeare cũng khó bằng Ơripit. Cái chỗ họ lôi cuốn ta ngày nay và mãi mãi sau này là họ có ý thức rất sáng suốt về sự lựa chọn, họ hiểu làm thế là đúng mà chỉ có thể làm thế mà thôi. Cách làm ấy đối với họ là sự thể hiện cái mà Shakespeare gọi là “con người trong ý nghĩa toàn vẹn nhất của danh từ”, và đặc biệt họ không hề có một phút hối hận lùi bước trước sự lựa chọn. Vì yêu đối với họ không phải là mù quáng lao mình theo dịnh mệnh, mà là phải khắc phục hoàn cảnh, cho nên họ rất sáng suốt, tháo vát, kiên quyết. Do đó, một khi khoác áo đàn ông vào (biện pháp duy nhất của người đàn bà bấy giờ để làm một công việc xã hội) thì họ thành những nam nhi ưu tú. Poócxia cải trang làm luật sư đã cứu được bạn của người yêu.Hạnh phúc chỉ đến với họ bằng đấu tranh, và phần lớn họ đã tìm thấy hạnh phúc. Chính vì vậy mà trong văn học nhân loại chưa ai tạo nên người đàn bà đẹp đẽ, đa dạng hấp dẫn người ta như Shakespeare. Thực xứng đáng với lời khen của ĂngGhen: “đáng yêu và kỳ lạ”. Hơn nữa, hình tượng nàng Poócxia là đại diện cho tinh thần nhân văn đối nghịch với Sailốc– đại diện cho những thói xấu xa, ti tiện.Sự thắng lợi của nàng là sự chiến thắng của lương thiện và nhân ái trước những thế lực tàn ác.
Poócxia một cô gái xinh đẹp, đức hạnh và kế thừa một gia sản lớn ở Benmông như chàng Basaniô ca ngợi: “Ở Benmông, có một vị phu nhân thừa kế gia tài lớn; nàng đẹp hơn cả cái tiếng đẹp nữa, những đức hạnh kỳ diệu nhất của bà ta càng làm tôn nhan sắc của bà lên. Tôi đã được cặp mắt của bà ta gửi gắm những lời nhắn nhủ dịu dàng, thầm lặng.Bà ta tên là Poócxia và chẳng thua kém gì ngưuòi con gái của Catông, bà Poócxia của Bơrutuyxơ. Vũ trụ này chẳng còn lạ gì giá trị của bà ta vì gió bốn phương thổi từ khắp các bờ biển tới cho bà những người rắp ranh tiếng tăm vang dội.”. Vẻ đẹp của nàng còn được chàng miêu tả qua mái tóc vàng óng: “những vòng tóc của nàng vàng chói ánh mặt trời, rủ xuống hai bên thái dương như một bộ “lông cừu vàng”, khiến nơi ở của nàng ở Benmông trở thành một bờ biển Concôsơ, có biết bao chàng Giadông kéo đến để cố đoạt lấy nó”. Mái tóc vàng gợi lên nét đẹp quyến rũ, duyên dáng và tràn đầy sức sống của nàng. Chính vẻ đẹp đó của nàng đã làm cho nhiều chàng trai từ các xứ sở khác nhau tìm đến để cầu hôn.Và trong tất cả những chàng trai đó chỉ Basaniô là dành được tình cảm của nàng và được nàng gửi trao ánh mắt nồng nàn và thầm lặng.Nhưng vẻ đẹp bên ngoài chỉ để tô điểm thêm nét đẹp bên trong tâm hồn của nàng.Chính đức hạnh mới làm nên vẻ đẹp bất diệt và đáng tôn vinh ở nàng.
Vẻ đẹp tâm hồn của nàng trước hết thể hiện qua vẻ đẹp đức hạnh.Đó là ở tấm lòng hiếu thảo biết vâng lời người cha đã qua đời của nàng. Đó là Poócxia đã tổ chức cuộc kén chồng theo đúng di chúc của cha đó là điều mà nàng không hề thích“Dù ta có phải ở vậy đến già như Sibilơ, ta cũng sẽ chết trinh bạch như Dianơ, trừ phi ta được gả bán theo ý muốn cuối cùng của cha ta”. Bởi vì, nàng yêu Basaniô và muốn được tự do lựa chọn người bạn đời của mình nhưng vì lòng hiếu thảo nàng phải làm theo lệnh cha. Nàng nói với Nêrixa: “Ôi, kén chọn! Chị không được kén chọn người mà chị vừa ý, cũng không được quyền khước từ kẻ mà chị không ưa. Ấy đấy, ý muốn của một đứa con gái còn sống, phải phục tòng ý nguyện của một người cha đã chết, như vậy đó” .Qua lời nói của Poócxia ta thấy dù không bằng lòng nhưng nàng vẫn phục tòng ý của cha mình. Điều đó chứng tỏ nàng vẫn kính nể người cha đã qua đời của mình vì thế nàng đã không làm theo ý muốn của mình. Tấm lòng hiếu thảo của Poócxia đáng được trân trọng và ngợi ca.
Vẻ đẹp trong tâm hồn của nàng còn được thể hiện qua tình yêu của nàng dành cho Basaniô. Đó là một tình yêu nồng nàn thủy chung. Tình yêu đó được thể hiện qua thái độ lo lắng của nàng khi Basaniô phải chọn lựa trong ba chiếc hộp vàng, bạc, chì, nàng rất sợ chàng sẽ chọn không đúng chiếc hộp có bức chân dung của mình thì nàng sẽ không được ở gần chàng nữa. Nàng nói với Basaniô đầy tình cảm: “Em xin chàng, đừng nên vội vã. Nên đợi một vài ngày rồi hãy lựa chọn, vì nhỡ chàng chọn không trúng, là em thiệt thòi không được gần chàng nữa.Xin hãy khoan tâm đôi chút.Em thầm cảm thấy rằng em không muốn mất chàng”.Qua lời nói của Poócxia chứng tỏ tình yêu của nàng dành cho Basaniô rất mãnh liệt, nàng luôn muốn được kết duyên cùng chàng và nàng có thể cho chàng tất cả những gì thuộc về mình. Poócxia nói với Basaniô: “Đôi mắt của chàng, thật đáng ghét: nó khiến em phải chịu phép nó và đã chia em ra thành hai phần, một nữa thuộc chàng, nữa kia thuộc chàng, em định nói thuộc em; nhưng thuộc em, tức là thuộc chàng, và như vậy tất cả em đều thuộc chàng”. Lời nói của nàng thật xúc động nó xuất phát từ trái tim thành thật và đang dâng trào niềm khao khát yêu thương. Tình yêu của nàng đã được Basaniô đáp lại cũng bằng cả trái tim của chàng. Chàng nói với Poócxia: “không có dị tâm nào khác ngoài nỗi lo lắng kinh khủng không được hưởng thụ mối tình yêu. Lửa và tuyết còn có thể cùng nhau phối hợp, chứ lòng dị tâm và mối chung tình của tôi không thể nào đi đôi với nhau được. Lời nói của Basaniô chứng tỏ chàng cũng khao khát muốn có được tình yêu của Poócxia và tình yêu của chàng đối với Poócxia là thành thật và chung tình. Sự chân thành trong tình yêu cùng với tài trí của chàng đã giúp cho Basaniô chọn đúng chiếc hòm có chứa chân dung của nàng Poócxia. Tình yêu chân thật đã giúp chàng không sợ lời đe dọa trên chiếc hòm bằng chì: “Ai chọn ta, phải cho và liều mất tất cả cái gì mình có”, bởi vì chàng yêu Poócxia thật lòng chàng có thể cho nàng tất cả những gì thuộc về chàng. Còn trí tuệ sáng suốt đã giúp chàng không bị vẻ ngoài của sự vật lừa dối và chàng đã chọn chiếc hòm bằng chì ít giá trị nhất. Chiếc hòm bằng chì tuy có vẻ ngoài xấu xí nhưng bên trong lại chứa đựng những điều tốt đẹp, cao quý và bức chân dung của nàng Poócxia là biểu tượng cho những điều đó.Chính vì thế mà Basaniô là người xứng đáng nhất trong tất cả các vị đến cầu hôn nàng Poócxia và chàng cũng rất xứng đáng nhận được tình yêu của nàng Poócxia. Poócxia hiểu được con người và tấm lòng của Basaniô thì nàng càng yêu chàng tha thiết hơn.Poócxia nói với Basaniô: “Tuy rằng, riêng đối với mình, thì chẳng bao giờ em cầu mong quá vọng, ước ao được mười phần ưu việt hơn thực chất, nhưng vì chàng, em chỉ mong muốn được hai chục lần làm tăng gấp ba những tài đức của em, được đẹp hơn gấp nghìn lần, giàu hơn gấp vạn lần, và như vậy, chỉ để trở thành quý giá hơn đối với mắt chàng. Em chỉ mong muốn vượt tất cả mọi giá, về tài đức, về dung nhan, về của cải về tình bằng hữu.”.Qua lời nói của nàng cho thấy nàng rất trân trọng tấm lòng của Basaniô và nàng cảm thấy tấm lòng đó thật đáng quý và nàng muốn mình tốt hơn gấp ngàn lần để xứng đáng với chàng. Không chỉ vậy,Poócxia đối với Basaniô, dù quen biết nhau chưa lâu, nhưng lại hoàn toàn tin tưởng. Lòng tin đó có lẽ bắt nguồn từ tình yêu tha thiết của cô gái. Vì tình yêu và lòng tin với chồng, Poócxia cũng hết sức tin tưởng Antôniô và sẵn sàng đưa cho Basaniô gấp đôi số tiền nợ phải trả để có thể cứu Antôniô. Nàng nói:Tôi tin rằng ông Antôniô kia đã là bạn thân của tướng công, thì chắc chắn phải giống tướng công. Và nếu thật như vậy, thì tôi đã trả giá rất rẻ để giành giật cái hình ảnh sống của người yêu quý của tôi ra khỏi cơn nước sôi lửa bỏng!Tình yêu của Basaniô và Poócxia thật đẹp và cao cả đó là tình yêu mà mọi chúng ta điều ao ước và tìm kiếm để có được nó.Đặc biệt là tình yêu này có ý nghĩa như một hồi chuông thức tỉnh giới trẻ thời đại ngày nay hãy nhìn nhận lại tình yêu của mình.Chúng ta muốn có được tình yêu chân thành thì trước hết chúng ta phải là người nghiêm túc và chân thật trong tình yêu thì chúng ta mới có thể nhận lại được một tình yêu đẹp.
Vẻ đẹp nhân văn của nàng Poócxia còn được thể hiện qua vẻ đẹp trí tuệ của nàng, nàng đem đế kết túc vui vẻ cho vở kịch, đem đến cách thức “cởi nút” cho ttất cả những mâu thuẫn đang chồng chéo nhau.Trí tuệ thông minh sắc sảo của nàng được khẳng định khi nàng cải nam trang, dưới danh nghĩa một tiến sĩ luật khoa để ra tòa giúp Antôniô cải thắng vụ kiện của Sailốc, dồn Sailốc vào chân tường theo cách thức “gậy ông đập lưng ông” hết sức độc đáo. Sailốc dựa vào tờ văn khế đã kí kết với Antôniô và luật pháp của Vơnidơ để đòi thi hành bản án là lấy thịt trên người Antôniô vì chàng đã trả số nợ không đúng kì hạn. Và Poócxia cũng dựa vào nội dung của tờ văn khế và luật pháp của Vơnidơ để làm cho âm mưu của tên Do thái thất bại hoàn toàn nàng bảo Sailôc: “ngươi hãy chuẩn bị để cắt thịt; không được làm rỏ một giọt máu; cũng không được cắt nhiều hơn một cân đúng: nếu cân lượng non già dù chỉ một li lai thôi, nếu cân nghiêng dù chỉ một sợi tóc thôi, ngươi sẽ bị tử hình, và tất cả tài sản của ngươi đều bị tịch thu.”. Poócxia biết được đó là điều mà Sailốc không thể làm được và hắn đã phải chấp nhận thua cuộc và thất thểu ra về. Poócxia còn dùng pháp luật của Vơnidơ để buộc tội hắn nàng nói: “Khoan đã, Do Thái! Ngươi lại còn bị tội với pháp luật một cách khác nữa.Trong các luật lệ của Vơnidơ, có nói rõ rằng nếu một người ngoại quốc bị chứng cớ rành rành là đã có những mưu mô trực tiếp hoặc gián tiếp để phạm đến tính mạng của công dân thành Vơnidơ”. Những lập luận sắc bén của Poócxia làm cho Sailốc đang từ trạng thái hưng phấn cực độ chuyển sang sự thất vọng và cuối cùng là thất bại thảm hại. Với tội này hắn bị tịch thu tài sản và phải kí vào bảng cam kết là phải để lại quyền thừa kế tài sản cho con gái hắn. Poócxia là hiện thân cho vẻ đẹp toàn diện của người phụ nữ thời đại Phục hưng của Shakespeare: thông minh, xinh đẹp và giàu có. Ở đây, Shakespeare đặc biệt đề cao trí tuệ của nàng, hiếm có nhân vật nữ nào trong văn học thế  giới có được bản lĩnh như nàng. Hình tượng Poócxia hiện lên rất đẹp đẽ và rõ nét.
Sự thông minh của Poócxia còn được thể hiện khi nàng thử lòng Basaniô. Khi Basaniô muốn đền ơn cho vị ân nhân đã cứu bạn mình là chàng luật sư do Poócxia cải trang thì Poócxia đề nghị chàng tặng cho nàng chiếc nhẫn đính hôn của hai người để làm món quà đền ơn. Lúc đầu, Basaniô không đồng ý như với sự kiên quyết của chàng luật sư trẻ tuổi cuối cùng Basaniô đành phải tặng chiếc nhẫn cho chàng luật sư.Việc làm đó của Basaniô chẳng những không làm cho Poócxia giận mà trái lại nó còn giúp nàng biết được nàng đã đúng khi chọn lựa Basaniô là chồng.Bởi vì, việc làm của Basaniô dù bên ngoài là phản bội lại tình yêu của nàng nhưng thực chất bên trong việc làm đó lại chứa đựng một tấm lòng cao cả mà Baxaniô dành cho người bạn dám hi sinh cả tính mạng chỉ vì hạnh phúc của chàng.Điều đó chứng tỏ Poócxia là một người phụ nữ thông minh biết nhìn nhận, suy xét sự việc một cách thấu đáo và chồng của nàng là một người biết trân trọng tình yêu và tình bạn.
ð Tiểu kết: Bằng tài năng kịch sắc sảo của mình, tác giả đã xây dựng những mâu thuẫn kịch chồng chéo để nhân vật gỡ nút khéo léo. Qua đó bộc lộ rõ những phẩm chất, tài năng của nhân vật mà cụ thể ở đây là nàng Poócxia . Không chỉ vậy, Shakespeare còn xây dựng một loạt những đoạn đối thoại đặc sắc giữa Poócxia và Sailốc để khắc hoạ vẻ đẹp của Póocxia – một người phụ nữ giàu có, xinh đẹp, thông minh, đức hạnh, trí tuệ. Nàng chính là đại diện cho vẻ đẹp trọn vẹn của người phụ nữ thời đại Phục hưng .

2.1.2.Ca ngợi những tình cảm cao đẹp

a) Tình yêu
Trong sáng tác Shakespeare đã dành nhiều trang viết cho tình yêu. Những mối tình trong kịch của ông đều rất trong sáng, mãnh liệt và đẹp đẽ. Ở bi kịch Shakespeare thường xây dựng nên những mối tình mãnh liệt nhưng oan trái, kết thúc đầy bi thương: “Romeo và Juliet”, “Otenlo”, “Hamlet”,…Ở hài kịch, ông lại tạo ra những mối tình hết sức tự nhiên, vui vẻ và kết thúc của những nhân vật là hạnh phúc, và hạnh phúc ấy khi đã vượt qua được thử thách thì sẽ bền chặt và lâu dài. Và đặc biệt qua vở hài kịch Người lái buôn thành Vơnido chúng ta thấy được niềm vui rộn rang, tình yêu vào cuộc sống, vào tương lai đã được Shakespeare gửi gắm. Trong tác phẩm này Shakespeare đã tạo nên một bầu không khí yêu đương tràn ngập. Những đôi bạn trẻ đắm mình trong bầu không khí đó để tận hưởng hạnh phúc ngọt ngào. Tình yêu chính là chất men của cuộc sống, chính là nguồn sức mạnh có khả năng chiến thắng tất cả những gì và chống lại những ai chống lại nó, chống lại con người. Ngoài hai nhân vật trung tâm là Basaniô Póocxia, Nêritxa và Gơratin, Giêsica và Lorenđô đều rất đẹp, họ đến với nhau rất tự nhiên, giản dị và đem đến hạnh phúc cho cả hai. Póocxiavà Basianô – hai nhân vật chính trong câu chuyện có một tình yêu đẹp và nồng cháy. Basaniô là một thương nhân trẻ tuổi, có học vấn nhưng nghèo thành Vơnido. Còn Póocxia là một cô gái mồ côi rất giàu, nàng đẹp khôn tả và đức hạnh tuyệt vời ở Belmont tiếng tăm nàng vang dội khắp nơi nên gần xa nô nức nhiều người đến cầu hôn. Song tiền bạc của cải không phải là mục đích mà nó chỉ là phương tiện để người ta tìm kiếm tình yêu mà thôi. Basaniô thấy Póocxiakhông chỉ giàu có mà còn là một người phụ nữ đức hạnh tuyệt vời. Basaniô yêu Póocxiatừ cái nhìn đầu tiên ( dù họ đã gặp nhau rất lâu trước đó). Chàng không quên được: đôi mắt nàng, mái tóc hung óng ánh xõa xuống từng lọn như bộ lông cừu vàng. Như Jason hăm hở trên đường đến Colchide…”. Và cũng chính vì yêu nàng và khát khao hạnh phúc nên Basaniô dù “tài sản duy nhất của chàng chỉ là dòng máu vương tôn lưu thông trong huyết quản”, và của cải còn lại chẳng đáng một đồng xu nên Basaniô đã mượn tiền của Antôniô đến Belmont để cầu hôn và tin rằng sự thành công chắc chắn sẽ mang lại cho đời chàng hạnh phúc. Và quả thật như vậy, Póocxia cũng yêu chàng rất nồng cháy, mãnh liệt. Khi Nêritxa nhắc đến Basaniô thì nàng nhớ ngay tên chàng: “Có nhớ, Póocxia nói, giọng cố làm ra vẻ lãnh đạm, hình như chàng tên là Basanio”. Khi hoàng tử Aragông và hoàng tử Marốc lựa chọn những chiếc hòm nơi có bức chân dung của nàng, Póocxia rất lo lắng. Nàng sợ một trong hai chọn đúng chiếc hòm thì nàng phải làm vợ người ấy. Đó sẽ là nỗi bất hạnh suốt cuộc đời của nàng vì hôn nhân không có tình yêu thì sẽ chỉ là một cuộc sống phải chịu đựng mà thôi. Đến khi tên nô bộc báo có một kỵ sĩ trẻ tuổi, thanh lịch và hào hoa đến thử thời vận chính là Bassanio thì nàng rất mừng vui. Nhưng đến khi Basaniô, Póocxiaday dứt vì buộc phải câm lặng trước điều bí mật, cô bồn chồn cái giây phút chàng có thể mất nàng mãi mãi: “Xin hãy hoãn lại,thưa ngài. Xin hãy chờ một hoặc hai ngày trước khi ngài thử liều; vì nếu ngài chọn sai tôi sẽ không còn được tiếp đón ngài nữa. Cho nên, xin chậm lại một chút. Có cái gì bảo tôi rằng tôi không muốn xa ngài và tự ngài cũng biết một sự gợi í như vậy”… “tôi có thể mách ngài chọn thế nào cho trúng. Nhưng như vậy tôi sẽ không giữ vững chọn lời thề mà tôi sẽ không bao giờ làm như thế. Vậy là ngài có thể trượt nhưng nếu ngài trượt, ngài sẽ khiến tôi hối hận một cách tội lỗi là đã giữ trọn đúng lời thề”.Nỗi lo của Póocxialà tâm trạng bình thường của những người đang yêu. (họ rất sợ mất người yêu). Lúc này, trong tâm trí nàng chỉ có hình bóng của Basaniô, không gian xung quanh cũng chỉ có Basaniô hiện hữu.Nhưng kẻ si tình đòi được chọn ngay tức khắc “Còn chì, cái màu xanh bình dịlàm ta xúc động. Cầu mong sự gặt hái của ta giúp ta được hạnh phúc”. Tiếng nhạc nổi trong khi Basanio lựa chọn những chiếc hòm:
“ Hãy bảo ta tình yêu ở chỗ nào
Ở trong tim hay ở trong đâu?
Nó sinh ra như thế nào và sống bằng gì?
      Trả lời đi, hãy trả lời đi
 Nó sinh ra trong ánh mắt
 Sống bằng cái nhìn và chết đi                   
Trong chiếc nôi mà nó an nghỉ
Tất cả hãy kéo chuông nguyện cho tình yêu...”                                        ”
Và khi Basaniô chọn được hòm có hình nàng thìPóocxiavui sướng tột độ. Vậy là nàng đã “trao thân gửi phận” cho một con người đáng tin cậy. Tình yêu đi đến hôn nhân là tình yêu trọn vẹn. Póocxia đã vui sướng mà nói rằng: “Thiếp vẫn ước làm sao có thể nhân phẩm giá của thiếp lên mấy mươi lần, có thể đẹp lên gấp ngàn lần, giàu có hơn ngàn vạn lần...Tấm thân của thiếp đây cùng với tất cả những gì của thiếp đã được cải hóa ở nơi chàng”. Nàng đã tin tưởng vào Basaniô và trao cho nàng tất cả, đặt hạnh phúc của mình nơi chàng. Đây là một tình yêu đẹp và không một chút vụ lợi.
Bên cạnh đó tình yêu của Giêsica và Lôrenđô cũng thật đẹp, họ đến với nhau giản dị và tự nhiên. Giêsica vì Lôrenđô dám bỏ cả cha mình để đi theo tiếng gọi của tình yêu, họ quyết tâm chạy trốn khỏi ông bố tàn ác, yêu tiền đến với chân trời mới. Họ nói với nhau những câu tình tứ:
“Lôrenđô: Người yêu của em đây
Giêsica: Chắc chắn rồi, người yêu của em, quả không sai...Vì em yêu ai bằng anh được? Và bây giờ em có phải người yêu của anh không, hở anh Lôrenzo? Ngoài anh ra ai biết được.
Lôrenđô: Có trời và tâm hồn em chứng giám: chính là em”
Đây là những lời nói xuất phát từ trái tim của họ. Chính Lôrenđô đã nghĩ: “Thật là một cô gái đáng yêu chứ không phải là một con bé Do Thái”. Anh từng khẳng định với người khác rằng: “ Tôi mà không một lòng một dạ yêu quý cô ta thì trời hại tôi! Theo tôi nhận thấy được thì cô ta ý nhị vô cùng; cô ta có nhan sắc nếu như mắt tôi không đánh lừa tôi. Cho nên với tư cách là một có gái ý nhị, nhan sắc, thủy chung , cô ta sẽ luôn ngự trị trong trái tim tôi”. Mối tình ấy đã đem đến kết quả tốt đẹp là hôn nhân. Đó là điều hạnh phúc to lớn và đáng nói nhất.
Nêritxa và Gôratianô đến với nhau cũng rất tình cờ và đột ngột, Gôratiaô theo Bassatinô đến Belmont mới gặp được nàng. Shakespeare không có lời nào miêu tả về tình yêu của họ nhưng hai con người này đã tự đến với nhau: “Công tử đã lấy bà chủ, tôi đã thấy nàng hầu, công tử đã yêu, tôi cũng đã yêu (...) Tôi đã đổ mồ hôi để chinh phục người tôi yêu, tôi đã thề thốt đủ điều đến nỗi khô cả cổ họng vì những lời hứa hẹn tình duyên đó”.
b) Tình bạn
Trong vở kịch ngoài tình yêu nồng nàn, say đắm, thủy chung giữa những con người đáng yêu, cao thượng ta còn thấy được tình bạn thắm thiết, niềm vui rộn ràng, tin tưởng vào tương lai. Nó đã thể hiện toàn vẹn trong vở hài kịch tươi vui đầy sống động. Nhân vật trung tâm của câu chuyện là Antôniô. Anh là một thương nhân triệu phú thành Vơnidơ vì muốn giúp bạn là Basaniô mà phải vay tiền tên Sailốc với một điều khoản kỳ quặc: “Nếu không hoàn đủ lại món tiền đó, tại nơi này, vào ngày nào, ngài sẽ được xóa sạch nợ, khi để tôi xẻo một khoảnh thịt chỉ bằng một livre thôi. Trên phần thịt nào của cơ thể ngài mà tôi thích!”. Một yêu cầu quái đản, một âm mưu trả thù, một hành động đê tiện đã mong muốn từ lâu của Sailốc – tên Do Thái quỷ quyệt, tàn nhẫn, vô liêm sỉ. Nhưng vì lẽ gì mà Antonio lại có thể chấp nhận giao ước kinh sợ đó, một giao ước phần may mắn chỉ là 50% mà không sợ hiểm nguy. Đó chính là tình bạn keo sơn không dời giữa chàng và Basaniô. Một tình bạn cao cả, thiêng liêng, không vụ lợi, tính toán giống như tình thân: “Tiền của anh cũng là tiền của chú, bao giờ anh cũng sẵn lòng”. Tình bạn ấy  được minh chứng rõ nét nhất qua thử thách. Khi Antôniô vay ba nghìn đuyca của Sailốc và hẹn hoàn lại trong vòng ba tháng. Nhưng rồi ba tháng trôi qua, toàn bộ gia tài của chàng đang ở trên mặt biển không một chút tin tức, một chút hồi âm. Chỉ có tin đồn: “ một chiếc tàu của Antôniô vừa bị đắm ở một chỗ cạn hiểm nghèo, giữa eo biển cách biệt hai nưới Pháp và Anh. Những chiếc khác ở. Mexico, Tripoli, Barbarie và Ấn Độ thì bặt tin tức”. Các bạn của Antôniô mong “tất cả chỉ là những lời dối trá”. Họ cầu Chúa, lo lắng cho chàng. Mong cho những con thuyền với tất cảng hóa đầy ắp sẽ cập bến trước thời hạn. Nhưng tất cả chỉ toàn những tin xấu ập tới. Nguy cơ Antôniô phá sản có thể xảy ra nhưng nguy cơ ghê rợn từ tên Do Thái mới là điều lo lắng nhất. Chính trong tình huống ngặt nghèo tình cảm, tình bạn, tình người giữa con người với con người đã vụt sáng và lấp lánh. Bạn bè của Antonio là Sôlaniô, Salarinô ... và hai mươi thương gia, cả vị đại Thống lĩnh nữa và các bạn nhân sĩ đã hết lời thuyết phục Sailốc, xin hắn đừng làm hành động mất tình người kia. Họ “cầu chúa sao cho đó là sự mất mát cuối cùng của ông ta”.Nhưng lão Sailốc đã cự tuyệt, trắng trợn tuyên bố: “thích một cân thịt của Antôniô hơn là hai mươi lần số nợ”. Tất cả mọi người đều yêu quý, kính trọng Antôniô và mong cho chàng thoát nạn. Tình cảm giữa người với người trong những giờ phút khó khăn nhất thật xúc động và đáng quý biết bao.
Đặc biệt là với Basaniô, người đã nhận sự giúp đỡ của chàng, Basaniô đang hạnh phúc còn chàng đang sắp sửa bị đưa ra pháp luật với cái chết cận kề trong âm mưu thâm độc, tàn nhẫn của Sailốc. Basaniô đau buồn hơn ai hết, đó là nỗi lo lắng của một người bạn, một người em, một người mang ơn Antôniô sâu sắc. Không có ba nghìn đuyca vay từ chàng thì có lẽ Basaniô đã không có được hạnh phúc. Và khi đã có cơ hội trả ơn, Basaniô đã đưa cho Sailốc số tiền vàng để trả gấp hai mươi lần món nợ ấy những mong cứu được người bạn tốt của mình. Vì yêu chồng và cảm phục, muốn cứu Antônio,Póocxia đã cải trang thành đồng nghiệp của ngài Bellario là nhà bác học trẻ Balthazar. Chính hành động cao thượng đó của nàng đã làm cho Bellario cảm phục: “Thưa phu nhân, tôi không ngần ngại mà nói với phu nhân rằng phu nhân có một ý nghĩ cao thượng và xác thực về tình bạn thiêng liêng phu nhân chịu đựng sự vắng mặt của đức ông như vậy là một bằng chứng hung hồn nhất về điều đó. Nhưng nếu phu nhân biết người mà phu nhân làm cho vinh dự này là ai, phu nhân đã cứu giúp một người thực dòng quý tộc như thế nào, cứu giúp người bạn tận tụy nào của đức ông chồng phu nhân thì tôi chắc chắn rằng phu nhân sẽ hãnh diện về việc làm của mình hơn là về một điều nhân đức bình thường”. Lời nhận xét đó của nhà bác học về việc làm của Póocxialà đúng nhưng chưa đủ, bởi lí do chính của hành động này xuất phát từ chính tấm lòng lương thiện của nàng. Và Póocxia không hối hận. Giữa những người bạn sống cùng nhau, vui cùng nhau, tâm hồn cũng do sự mềm yếu chi phối thì hẳn là phải có sự hòa hợp thực sự về tính tình, phong cách và thị hiếu. Chính điều đó đã khiến Póocxia nghĩ Antôniô là người bạn lòng thực sự của chồng nàng và giống chồng nàng.
Bên cạnh đó tình cảm giữa Basaniô và Gơratianô, Póocxia và Nêritxa đã vượt lên trên tình chủ tớ bình thường. Chính sự quan tâm chân thành, lo lắng yêu thương nhau thật long, yêu thương đã làm cho tình chủ tớ trở thành tình bạn, tình thân. Cả Basanio và Póocxia đều coi Gơratianô và Nêritxa như những người bạn tốt, người thân trong gia đình. Họ thấu hiểu nỗi long, tâm sự của chủ mình cùng nhau trải qua mọi thử thách, hạnh phúc trong cuộc đời. Và tình cảm trân quý, tốt đẹp đó càng bền chặt hơn qua đám cưới của hai cặp đôi.
      Bên cạnh tiếng nói ngợi ca con người, tình yêu còn nổi bật lên tiếng nói lương
tri, chính nghĩa. Nó được cất lên qua phiên tòa xét xử vụ vay tiền giữa Antôniô và Sailốc. Vì muốn giúp chàng Basaniô đến cầu hôn nàngPóocxia mà chàng thương gia Antoniô đã giúp Basaniô vay Sailốc ba nghìn đuyca. Sailốc là một tên chuyện
cho vay nặng lãi, vốn căm ghét Antôniô nên chỉđồng ý cho vay với một điều kiện: Nếu Antôniô không có khả năng trả nợ vào ngày ấn định, ông ta có quyền lấy một cân thịt trên cơ thể anh và ở lấy vị trí gần tim nhất. Antôniô đồng ý. Vài ngày sau,
tất cả thuyền chở hàng hóa của Antôniô được thông báo mất tích ngoài biển, đẩy
anh vào cảnh không có khả năng trả ba nghìn đuyca đúng hạn. Với bản giao kèo có chữ ký của Antôniô, Sailốc kiện anh  ra tòa. Sau đám cưới với Póocxiaở Belmont,ngay khi nghe tin về Antôniô, Basaniô tức tốc trở về Vơnidơ và đềnghị trả gấp đôi số tiền nợ nhưng Sailốc từ chối. Hắn đòi thi hành đúng thỏa thuận. Đúng lúc đó,
một luật sư trẻ xuất hiện, yêu cầu được bào chữa cho bị cáo. Người đó chính là
Póocxia. Nàng quyết định cải trang nam, dưới danh nghĩa một tiến sĩ luật khoa để
cứu ân nhân của chồng "Người ta loan báo có một sứ giả từ Padoue đến, mang theo lá thư của vị bác học. Một viên thư kí  mặt non choẹt dưới chiếc mũ vải đen gấp nếp, bước vào trình thư lên đại thống lĩnh" sau đó, đại thống lĩnh đã chấp nhận cho Póocxia thay thế nhà bác học Bellario "Cho mời vào, nhà bác học Balthazar sẽ thay thế Bellario, hiện đang lâm bệnh". Póocxiađã đưa ra những lý lẽ hết sức thuyết
phục không thể bàn cãi để lật ngược tình thế bất lợi của Antôniô.
Sailốc dựa vào tờ văn khế đã kí kết với Antôniô và luật pháp của Vơnidơ để đòi
thi hành bản án là lấy thịt trên người Antôniô vì chàng đã trả số nợ không đúng kì hạn. Và Póocxia cũng dựa vào nội dung của tờ văn khế và luật pháp của Vơ-ni-dơ để làm cho âm mưu của tên Do thái thất bại hoàn toàn.  Nàng bảo Sailốc: “ngươi
hãy chuẩn bị để cắt thịt, không được làm rỏ một giọt máu, cũng không được cắt
nhiều hơn một cân đúng, nếu cân lượng non già dù chỉ một li lai thôi, nếu cân
nghiêng dù chỉ một sợi tóc thôi, ngươi sẽ bị tử hình, và tất cả tài sản của ngươi đều bị tịch thu". Póocxia biết được đó là điều mà Sailốc không thể làm được và hắn đã phải chấp nhận thua cuộc và thất thiểu ra về.Póocxia dùng pháp luật của Vơnidơ
để buộc tội hắn nàng nói: “Khoan đã, Do Thái! Ngươi lại còn bị tội với pháp luật một cách khác nữa. Trong các luật lệ của Vơnidơ, có nói rõ rằng nếu một người ngoại quốc bị chứng cớ rành rành là đã có những mưu mô trực tiếp hoặc gián tiếp để phạm đến tính mạng của công dân thành Vơnidơ”. Với tội này hắn bị tịch thu tài
sản và phải kí vào bảng cam kết là phải để lại quyền thừa kế tài sản cho con gái
hắn. Với sự thông minh tài trí Póocxia đã cứu được người bạn thân của chồng thoát
nạn và làm cho tên Do Thái độc ác Sailốc phải chịu hình phạt đích đáng. Cái lương
thiện đã giành chiến thắng trước cái ác, cái xấu xa. Tên Sailốc đã phải chịu sự
trừng phạt cho sự độc ác và ngu xuẩn của mình. Chính quan tòa lương tri đã giúp Antôniô yếu thế chiến thắng. Đống thời qua đó đề cao cái đẹp, cái thiện và đó
cũng là tiếng nói khẳng định của lương tri chính nghĩa trong cuộc sống.
 Bên cạnh phiên tòa chính nghĩa thì hình ảnh Sailốc bênh vực cho dân tộc mình
cũng rất đáng ngợi ca. " Thưa ngài Antôniô, biết bao lần trên cầu Rialto ngài đã
trách móc tôi cho vay nặng lãi, lần nào tôi cũng nhún vai không buồn trả lời, vì sự nhẫn nhục là đặc tính riêng biệt của dân tộc tôi. Ngài đã cho tôi là phản giáo, chó
ghẻ, ngài nhổ toẹt vào áo chủng Do Thái của tôi, tất cả chỉ vì tôi toan tính theo ý
mình, những cái thuộc về tôi..."  "Chỉ vì tôi là một người Do Thái. Chẳng lẽ người Do Thái lại không có mắt, có tay, có đầy đủ các giác quan với mọi thứ tình cảm và những nỗi say mê à? Họ chẳng ăn cùng một loại thực phẩm như người Cơ đốc hay sao? Chẳng phải người Do Thái cũng bị thương tích bởi cùng những loại vũ khí,
cũng mắc phải những căn bệnh và được chữa trị bằng những vị thuốc giống như
người Cơ đốc đó sao? Chẳng phải mùa hè người Do Thái cũng nóng bức,và mùa
đông cũng lạnh buốt y như các tín đồ Cơđốc đó sao?Nếu các người đâm chúng tôi không chảy máu à? Nếu các người cù chúng tôi không cười à?Nếu các người đầu độc chúng tôi không chết à? Nếu các người xúc phạm chúng tôi, chúng tôi lại
không trả thù à? Nếu các người giống chúng tôi tất cả những cái đó thì bất luận cái gì chúng tôi cũng giống các người hết" đó là những lời lẽ hết sức đúng đắn, chân
thành mà Sailốc dành cho những người  Do Thái, qua đó cho thấy Sailốc là một
người có lòng tự tôn dân tộc rất cao, dám bảo vệ những đặc tính riêng có của dân
tộc mình, bảo vệ dân tộc trước sự ghét bỏ của các dân tộc khác đối với dân tộc
mình. Dù có độc ác, tàn nhẫn thế nào thì với Sailốc, nguồn gốc Do Thái vẫn vô
cùng thiêng liêng, gắn bó. Ông tự hào vì mình là người Do Thái, sẵn sàng bảo vệ
dân tộc mình khi có người phỉ báng thanh danh của dân tộc. Đó cũng là tiếng nói
lương tri chính nghĩa, tiếng nói cất lên bởi một tình yêu quê hương, cội nguồn
thiêng liêng, cao đẹp. Không ai có thể chối bỏ nguồn gốc của mình. Quê hương
vẫn là nơi chốn thiêng liêng mà mỗi con người đều nhớ thương và tự hào. Sailốc
cũng là một người yêu quê hương nguồn cội. Đó là một nét đẹp bên cạnh những
cái xấu xa, tầm thường của một tên cho vay nặng lãi.
   Trong một xã hội mà đồng tiền ngự trị thì lương tri, chính nghĩa vẫn luôn chiến
thắng. William Shakespeare đã rất thành công khi dựng lên một phiên tòa để bảo
vệ cho những con người có phẩm chất tốt đẹp, qua đó phê phán những kẻ bất
lương để đạt được mục đích không từ thủ đoạn hèn hạ nào. Giá trị con người được nâng lên trên giá trị của đồng tiền. Đồng thời, con người cũng rất coi trọng nguồn
gốc xuất xứ của mình, không chối bỏ nó dù cho có bị mọi người kì thị hay căm
ghét. Đó là một thứ tình cảm cao đẹp và đáng trân trọng.

2.2Cảm hứng phê phán trong tác phẩm “ Người lái buôn thành Vonido”

  Tác phẩm Người lái buôn thành Vonido là bài ca về tình bạn, tình yêu thủy chung cao cả, đề cao trí tuệ và công lí...Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm còn là sự lên án tố cáo phê phán những mặt xấu tồn tại trong xã hội mà điển hình và rõ nét nhất là sự phê phán chế độ phong kiến lạc hậu.
Trong tác phẩm chúng ta bắt gặp những anh chàng quý tộc tự cao, tự đại, xem mình là con người tài giỏi . Nhưng thực chất họ chỉ là những con người tầm thường với đầu óc trống rỗng , thiếu sự suy xét, dễ bị vẻ bề ngoài đánh lừa.Điển hình phải kể đến là ông hoàng Marốc và ông hoàng xứ Aragông- hai vị khách đến cầu hôn nàng Póocxia. Con người và tính cách của hai ông hoàng này hiện lên thật đầy đủ qua hai bức hình đựng trong hai chiếc hòm vàng và bạc mà hai ông đã chọn. “Hoàng tử xứ Marốc kiêu hùng không sao tin rằng bức chân dung tuyệt trần của nàng, phần thưởng cho kẻ tinh ý và tài năng lại có thể cất giữ nơi nào khác hơn là trong cái tráp bằng vàng ròng”.  Nhưng thứ mà ông ta  nhận được chính là bức hình một cái đầu lâu người chết và hố mắt rỗng. Còn hoàng tử  xứ Aragông thì “ muốn chứng tỏ mình có đầu óc khác thường , nghĩ rằng nên chọn cái tráp bằng bạc: Một bức biếm họa dị hợm như gởi gã lời chào tinh quái”. Qua bức chân dung trong hai chiếc hòm ta thấy Shakespeare đã khắc họa thật sinh động chân dung của hai nhà đại quý tộc , họ đều là những con người ngu ngốc, thiếu suy nghĩ với cái nhìn  thật thiển cận. Tính phê phán còn được thể hiện chính trong  lời châm biếm của Baxanio rằng thiên hạ luôn luôn họ luôn “bị đánh lừa bởi ngoại hình trang sức”, chàng chế giễu những kẻ giả danh anh hùng mà “bộ gan lại trắng bệch như sữa”. Chàng chỉ ra những con người bề ngoài rất đẹp “ vành tóc xoăn óng ánh sắc vàng”  nhưng tâm hồn lại vô cùng trống rỗng “nằm yên trong mồ”.... Có thể nói qua hình ảnh điển hình của hai tên quý tộc, tác giả đã chứng minh rằng không phải cứ tầng lớp quý tộc là cao quý và tài giỏi. Chính vì thế mà ông đã bày tỏ thái độ không đồng tình và phê phán tư tưởng của chế độ phong kiến là khinh rẻ đối với những con người xuất thân là tầng lớp bình dân trong xã hội.
 Màu sắc phê phán trong tác phẩm còn được thể hiện qua những áp chế trong xã hội phong kiến, đó là quyền “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” được phản ánh trong cuộc hôn nhân của nàng Póocxia . Vốn dĩ yêu đương là quyền tự do và chỉ thực sự được đơm hoa khi hai con người phải thực sự hòa hợp về tâm hồn và tính cách. Và hôn nhân thì lại càng không thể gượng ép được.Con cái hiếu thảo, vâng lời cha mẹ nhưng không phải mọi chuyện đều nghe theo lời cha mẹ là tốt đẹp  đặc biệt là trong tình yêu và hôn nhân.Việc cha của nàng Póocxia muốn khẳng định quyền “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” không cho nàng được tự do trong hôn nhân “ Thật khổ cho ta, đã không thể lựa chọn hay từ chối một người chồng , bởi vid ước mơ của một cô gái đang sống phải chiều theo ý nguyện của một người cha đã chết”. Lời nói trên cho thấy trong xã hôị phong kiến con người đã bị kìm hãm bởi những thế lực thế quyền và thần quyền. Ẩn sau đó là thái độ lên án của tác giả đối với những luân lí đạo đức cổ hủ phong kín đã đè nén và kìm hãm tự do cá nhân của con người.
 Đất nước và xã hội mà Shakespeare không phải là một xã hội lý tưởng và hoàn toàn hạnh phúc .Trong lòng xã hội đó là những biến động ngầm và đầy dữ dội của của thời kì quá độ từ phong kiến lên tư bản chủ nghĩa. Bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc Shakespeare đã dùng ngòi bút của mình để thể hiện thái độ bênh vực và đấu tranh với những thế lực kìm hãm sự phát triển của con người, những thành kiến trong xã hội phong kiến lạc hậu lúc bấy giờ.

2.2.2 Phê phán xã hội tích lũy tư bản

         Kinh tế nước Anh phát triển trong thời đại Phục hưng kéo theo sự phát triển của nhà nước tư bản và giai cấp tư bản. Đối với giai cấp này lợi nhuận được đặt lên vị trí hàng đầu và đồng tiền trở thành kim chỉ nam cho suy nghĩ và hành động của họ. Thực tiễn xã hội với đồng tiền lên ngôi, len lỏi vào mọi mối quan hệ xã hội đã được Shakespeare phản ánh một cách chân thực trong vở hài kịch Người lái buôn thành Vơnidơ.
Trước hết, ông phê phán sự thống trị của đồng tiền trong xã hội. Ông từng nêu lên nhận định của mình về bản chất của đồng tiền qua một vài nhận xét: Đồng tiền là con đĩ của cả thế giới, là tay mối lái để hết thay mọi người và hết thảy các dân tộc. Đồng tiền đã biến con người trở thành nô lệ phục vụ nó và cuộc sống của nhà Sailốc là một ví dụ điển hình. Con người cố gắng làm ra thật nhiều tiền để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản thân mình nhưng nhà tư sản Sailốc  khi có nhiều tiền lại sống một cách tằn tiện, keo kiệt, không dám ăn, không dám tiêu xài. Đến người hầu của hắn ta cũng phải chết đói và bỏ đi theo hầu Basaniô “Cho lão ta một cái sợi dây treo cổ là tốt nhất. Con chết đói vì hầu hạ hắn; bố đếm được hết xương sườn con đây này”.Và lão cũng không cho đứa con gái duy nhất của mình hưởng bất kì thú vui nào khiến cô phải thốt lên với tên người hầu Lăngxơlô rằng: “Mày bỏ cha ta mà đi như vậy, ta giận lắm. Nhà chúng ta là một cái địa ngục, còn mày tên ma quỷ vui vẻ, mày đã làm mất của nó một ít cái mùi phiền muộn, nhưng thôi mày đi nhé!”.Qua lời nói của Giêsica, chúng ta thấy rằng mặc dù Sailốc là một kẻ rất giàu có nhưng với cái lối sống keo kiệt ông đã biến chính ngôi nhà của mình trở thành địa ngục.Và tiền bạc khiến ông ta không ngừng lo lắng khi phải ra khỏi nhà dù chỉ là một chút “Còn tôi, tôi về thẳng nhà lấy tiền và ngó qua xem nhà cửa ra sao; tôi giao nhà cho một tên đầy tớ lơ đãng trông nôm, nguy hiểm quá. Tôi sẽ đến hầy các ngài ngay bây giờ”và  khi phải dự bữa cơm tối ở nhà Basaniô, lão liên tục dặn dò con một cách kĩ lưỡng: “Giêsica con gái của cha, con trông nom nhà cửa nhé…Ra khỏi nhà là cha chán ghét vô cùng: có cái gì đê tiện đang chực phá rối  an ninh của ta vì đêm qua ta mơ thấy những túi bạc.”, “Hãy nghe cha: hãy đóng cửa lại cho chắc, và khi con nghe thấy tiếng trống cùng tiếng réo rắt bỉ ổi của cái sáo thì cũng đừng thò đầu ra ngoài đường mà nhìn cái bọ cơ đốc điên rồ với bộ mặt bóng nhoáng ấy. Con phải đút nút tainhà ta lại, tức là mấy cái cử sổ ý. Tiếng ồn ào của cái lố lăng, phù phiếm không được lọt vào căn nhà thâm nghiêm của ta! Ta thề với chiếc gậy của Giacốp rằng ta chẳng muốn đi ăn cơm khách tối nay chút nào…”. Qua đó, ta thấy cất lên tiếng nói phê phán xã hội đồng tiền, nó biến con người trở thành nô lệ của nó, con người chấp nhận cuộc sống kham khổ để giữ gìn những đồng tiền của mình không bị tiêu hao và lúc nào cũng canh cánh lo lắng vì sợ sẽ mất đi những đồng tiền quý giá đó.
Bên cạnh đó, đồng tiền chi phối mọi mối quan hệ trong xã hội, nó làm tha hóa đi những phẩm chất và những tình cảm tốt đẹp của con người. Đồng tiền còn cao quý hơn cả tình thân, hơn cả tình cảm cha con. Vì vậy, khi Giêsica bỏ trốn cùng với tài sản của Sailốc thì lão đau đớn đến điên dại, lang thang khắp phố và luôn lải nhải: “Con gái ta ơi! Ôi những đồng đuyca của ta! Ôi con gái ta! Trốn đi với một thằng theo đạo cơ đốc ư!..Ôi, những đồng đuyca của ta! Ôi, con gái ta! Trốn đi với một thằng theo đạo cơđốc ư! Ôi, những đồng đuyca theo đạo cơđốc của ta! Công lý hỡi! Luật pháp hỡi! Những đồng đuyca của ta và con gái ta! Một túi đầy hai túi đuyca, đầy đuyca đôi, con gái ta đã lấy trộm của ta! Lại còn đồ tư trang nữa! Hai hạt ngọc, hai hạt ngọc quý giá, con gái ta đã lấy trộm!...Công lý hỡi, hãy tìm ra con bé! Nó mang trong người nó ngọc với tiền vàng đấy!”. Ông ta đau xót vì tài sản bị mất cắp hơn là đứa con gái duy nhất của mình. Sai lốc cho người tìm kiếm Giêsica vì số tài sản mà cô lấy cắp chứ không phải vì cô và khi được TuBan cho biết rằng Giêsica tiêu tiền của lão một cách phung phí thì lão sẵn sàng nguyền rủa con gái mình, muốn cô chết đứ đừ dưới chân lão: “Thôi, thôi, thôi, thôi! Một viên kim cương tôi đã mua ở Phơ răng pho hai nghìn đồng đuyca, thế là mất hút! Cho tới nay, tai vạ chưa rơi vào dân tộc ta; chỉ đến bây giờ đây tôi mới cảm thấy nó…Hai nghìn đuyca mất tăm, không kể đồ tư trang quý giá, rất là quý giá khác! …Tôi ao ước thấy đứa con gái tôi ở đây, dưới chân tôi, chết đứ đừ, tai nó đeo tư trang! Tôi muốn thấy nó ở đây, dưới chân tôi, với những đồng đuyca trong áo quan! …Không, không có một tin nào!...Mà tôi không biết tất cả những chuyện tìm kiếm này, tốn kém  hết bao nhiêu. Vâng, mất mát này chồng chất mất mát kia! Thằng ăn trộm đi mất, mang theo chừng này; lại chừng ấy nữa để tìm thằng ăn trộm”. Và lão nguyền rủa con “Trời sẽ hại nó!”. Có thể nói đồng tiền trong xã hội tư bản nó đã vượt lên trên mọi mối quan hệ, biến đổi mọi mối quan hệ tưởng chừng như thiêng liêng, cao cả và tốt đẹp nhất không có gì có thể thay đổi thì nay có thể biến đổi tất cả, nó biến Sailốc trở thành một người cha vô cảm , coi tiền bạc hơn cả con cái.
Ngoài ra, đồng tiền còn len lỏi vào mọi mối quan hệ trong xã hội và ngay cả trong tình yêu và hôn nhân.Lấy được Póocxia tức là chiếm được phần hồi môn to lớn của nàng nên rất nhiều người muốn làm chồng nàng. Động lực thúc đẩy họ chính là tiền tiêu biểu là Aragông và ông hoàng xứ Marốc . Điều này được thể hiện rõ trong suy nghĩ của hai người này khi phải đứng trước sự lựa chọn ba cái hòm vàng, bạc và chì .Ông hoàng xứ Marốc coi khinh cái hòm bằng chì “Tráp chì mà chứa vào thì liệu có lý nào hay không?Nếu mang ý nghĩa đê hèn như vậy thì thật là đáng bị nguyền rủa. Thứ kim khí gì mà thô bạo đến thế! Ngay cho có đem nó lót thêm vài vải liệm trong nấm mồ âm u, cũng chẳng bõ…Có đời thủa nào một bảo thạch vô giá như vậy lại được khảm vào một thứ kim loại khác chứ không phải vàng.” Thái độ của hoàng thân  Aragông cũng tương tự như vậy “Vàng này, bạc này và chì thấp hèn này (…). Thế thì trước khi ta từ bỏ hoặc phó mặc cho may rủi, mi phải có cái mã đẹp hơn chứ (…) Ta không muốn lựa chọn cái nhiều người cầu mong, vì không muốn đồng ý kiến với kẻ tầm thường và tự xếm pmfnh vào đám quần chúng mọi rợ”.Ngay cả tình yêu đẹp của Póocxia và Basaniô cũng ít nhiều nhuốm màu vật chất. Basaniô phải vay đến ba nghìn đuyca để làm phương tiện chiếm lĩnh tình yêu của một nàng thừa kế giàu có, Giêsica khi bỏ trốn cùng người yêu cũng đem theo tiền bạc của ông bố keo kiệt và tàn nhẫn Sailốc. Tuy nhiên, tiền bạc không phải là mục đích mà nó chỉ là phương tiện để người ta tìm kiếm tình yêu mà thôi. Basaniô thấy Póocxia là một người phụ nữ xinh đẹp, đức hạnh tuyệt vời và Giêsica và Lôrenzô say mê nhau và quyết tâm bỏ trốn cùng nhau để thoát khỏi ông bố tàn ác đến với chân trời mới. Như vậy, ngay cả trong tình yêu, tiền bạc cũng len lỏi vào cho dù là ít ỏi.
          Đồng tiền khiến con người mất dần đi những bản chất tốt đẹp của mình. Đồng tiền biến Sailốc trở thành một con người keo kiệt, nham hiểm và tàn nhẫn đến ghe sợ. Vì Antôniô không hoàn lại số tiền đã vay của Sailốc đúng thời hạn mà hắn quyết tâm róc thịt Antôniô vì lòng căm thù. Khi Salarinô hỏi Sailốc rằng: “Chà! Tôi chắc rằng nếu ông ta không theo đúng lời cam kết thì lão cũng sẽ không xẻo thịt của ông ta đâu. Thịt ấy có có dùng làm gì được”. Thì Sailốc trả lời một cách lạnh lùng, đầy căm giận: “Để làm mồi câu cá! Dù chỉ để thỏa mãn ý muốn trả thù của tôi thôi,tôi cũng cứ xẻo”. Mà một trong những lí do quan trọng mà lão muốn lấy mạng Antôniô vì anh ta làm ảnh hưởng đến việc cho vay với lãi cao của lão: “Sao mà hắn có vẻ một kẻ kinh doanh xu nịnh như vậy! Ta căm ghét hắn vì hắn theo đạo Cơđốc, nhất là vì trong cái giản dị đê hèn của hắn, hắn cho vay tiền mà không lại và làm sụt giá lợi suất hàng tháng ở đây, ở Vơnidơ này trong chúng ta. Bao giờ mà ta nắm được hắn trong  tay, ta sẽ làm cho hả mối căm hờn của ta đối với hắn. Hắn căm ghét dân tộc thần thánh của ta, hắn la lối giữ nơi mà nhà buôn hội họp, chống lại ta, những sự hoạt động của ta, chống lại những món lãi chính đáng của ta mà hắn gọi là lợi tức! Ta mà tha thứ cho hắn thì trời hại bộ tộc ta”. Đồng tiền khiến con người trở nên tàn nhẫn, có thể lấy thịt đồng loại của mình để thỏa mãn lòng thù hận quan trọng hơn là để việc làm ăn của mình trở nên thuận lợi hơn, sinh ra nhiều tiền của hơn.
Tác phẩm đã vạch trần bản chất xảo quyệt của giai cấp tư sản.Để tích lũy tư bản, bọn thống trị đã làm đủ mọi cách: chiến tranh cướp bóc, cho vay nặng lãi, xâm lược thuộc địa. Như Mác nói: “Lịch sử của sự tước đoạt này được viết bằng tiếng nói của lửa và máu”. “Sự tước đoạt những người sản xuất trực tiếp được tiến hành với sự dã man tàn nhẫn nhất, dưới áp lực của những dục vọng hèn hạ nhất, bẩn thỉu nhất, vụn vạt nhất và điên cuồng nhất”. Giai cấp tư bản thường dùng những lời lẽ tốt đẹp, những lập luận xảo trá để che đậy bản chất bóc lột của giai cấp mình điều đó được thể hiện qua lời ngụy biện của Sailốc, hắn đã mượn câu chuyện của kinh thánh để biện minh việc cho vay với lãi cao là hợp lí và không có gì là xấu xa: “Khi Giacốp đi chăn cừu cho ông chủ Laban của mình, nhờ có bà mẹ khôn ngoan lo liệu giúp. Giacốp này trở thành bậc trưởng lão thứ ba sau Abơraham thần thánh của chúng tôi, vâng, Giacốp là người thứ ba”,  “Không, ông ta không cho vay lấy lãi. Hãy chú ý nghe xem Giacốp đã làm như thế nào. Laban và ông ta đã thỏa thuận với nhau rằng tất cả những con cừu có vằn và có đốm sẽ để trả công cho Giacốp. Cừu cái động cỡn đi tìm cừu đực vào cuối mùa thu,  trong khi có việc truyền giống thực hiện giữa những con vật làm lên này thì chàng mục tử bắt đầu bóc vỏ một số que vào đúng lúc cái việc tự nhiên diễn ra thì đem que cắm trước những con cừu cái dâm dật. Đám này thụ thai vào đó và đến kì thì đẻ ra những con cừu non sặc sỡ; thế là Giacốp được ban phúc, lời lãi là phúc lành khi nó không phải là của ăn cắp”. Nhưng dù thế nào, hắn cũng không thể che đậy được bản chất xấu xa của giai cấp tư sản. Hành động kiên quyết đòi róc thịt Antôniô bỏ mặc mọi lời can ngăn, khuyên giải của mọi người trong tòa án đã nói lên bản chất xấu xa của giai cấp tư sản. Qua lời của Sailốc trước tòa án, ta thấy được bản chất bóc lột, thủ đoạn vơ vét sức lao động của giai cấp tư sản: “Các ngài có biết bao nhiêu nô lệ sống với các ngài mà các ngài sử dụng như những con lừa, con chó, con la của các ngài, vào những công việc hèn hạ và nhơ nhuốc, vì các ngài đã mua họ… Liệu tôi có sẽ nói với các ngài: “Hãy trả lại tự do cho họ đi! Hãy gả họ cho con cái của các ngài đi! Tại sao họ phải mồ hôi đầm đìa dưới những gánh nặng.Giường nằm của họ cũng phải em như giường của các ngài. Món ăn của họ cũng phải ngon miệng như món ăn của các ngài”. Các ngày sẽ trả lời tôi: “Những tên nô lệ ấy là của chúng tôi…” Ấy, tôi cũng trả lời giống như vậy, cân thịt mà tôi đòi của hắn, tôi đã phải trả giá rắt đắt, nó là của tôi và tôi muốn có nó”.
Cuối cùng, trong tác phẩm, Shakespearecòn phê phán sự kì thị chủng tộc, tôn giáo trong xã hội tư bản.Giai cấp tư bản vì muốn che đậy bản chất bóc lột của mình nên họ đã ra sức bảo vệ và nuôi dưỡng thành kiến về giai cấp, tôn giáo.Với cái nhìn nhân đạo, nhà viết kịch đã lên án, phê phán sự phân biệt đó. Qua lời tố cáo của Sailốc, ta thấy được thái độ lên án của nhà văn với sự bóc lột và coi rẻ những người dân da màu bị bán làm nô lệ. Bên cạnh đó, nhà viết kịch cũng thể hiện thái độ không đồng tình với chế độ phân biệt dân tộc qua việc thể hiện thành kiến với người Do Thái: “Ngài gọi chúng tôi là đồ không tín ngưỡng, là đồ chó má, đồ ăn cướp, và ngài nhổ vào cái áo khoác Do Thái của tôi”.  Qua đó, Shakespearelên tiếng bênh vực người Do Thái và lời bên vực đó được nhà phê bình Xmirnốp nhận xét đây là lời bênh vực quyền bình đẳng của người Do Thái hùng hồn nhất có thể thấy trong văn học thế giới.
Tiểu kết: Tóm lại, với việc xây dựng không gian đồng tiền bao trùm tác phẩm, tiền trở thành một chất “xúc tác’ làm cho xung đột kịch xảy ra nhanh và đẩy lên cao hơn trong không gian pháp lí, nghệ thuật xây dựng nghệ thuật miêu tả độc thoại nội tâm đặc sắc thể hiện rõ tính cách nhân vật… đã góp phần thể hiện rõ tư tưởng, làm nên thành công to lớn của tác phẩm. Và Shakespeaređược coi là người đầu tiên trong văn học có cái nhìn sâu sắc về quần chúng và cũng đồng thời là người đầu tiên phê phán xã hội tư bản được thể hiện cụ thể nhất trong việc phân tích bản chất của đồng tiền. Như Mác nói: “Shakespeare đã tả rất rõ bản chất của đồng tiền”


III. Tổng kết:

Vở hài kịch Người lái buôn thành Vơnidơ, Shakespeare đã làm sống dậy trước mắt người đọc cả một thời kì đầy tư bản với cả mặt tốt và mặt xấu của nó. Tuy tác phẩm mượn đề tài kịch của cổ đại Hy Lạp và La Mã: Câu chuyện nàng Giêsica lấy trộm châu báu của người cha keo kiệt độc ác rồi trốn theo người yêu nàng được tác giả mượn trong một truyện ngắn khác của Mat Xuyxio đơ Xalecmo…Còn chuyện nàng Póocxia kén chồng bằng cách mời những kẻ cầu hôn lựa chọn một trong ba cái hòm, ai chọn đúng hòm thì kết hôn được với nàng thì Shakespeare mượn từ một cuốn truyện đạo đức của người La Mã xưa.  Đề tài, cốt truyện tuy được vay mượn nhưng nhà viết kịch đã làm cho chúng trở nên sinh động, hấp dẫn với người đọc, người xem. Đằng sau tiếng cười hả hê, ta thấy được nỗi băn khoăn, trăn trở của tác giả, là tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhà văn. Và chính điều này đã góp phần làm nên tên tuổi của Shakespeare và đúng lời đánh giá của Emecxơ ông trở thành “nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử cận đại”.

IV. Tài liệu tham khảo.

1.     Người lái buôn thành Vơnidơ, nhà xuất bản sân khấu.
2.     Nguyễn Thị Hồng Nhung, Báo cáo khoa học Con người thời Phục hưng trong Shakespeare, ĐHSPHN, 2006.
3.     Lê Thị Mai Hương, Báo cáo khoa học Không gian và thời gian nghệ thuật trong vở hài kịch Thương nhân thành Vơnidơcủa W. Shakespeare,  ĐHSPHN, 2005.
4.     Luận án Cảm hứng nhân văn trong ba vở hài kịch Giấc mộng đêm hè, Đêm thứ mười hai, Người lái buôn thành Vơnidơ của Shếchxpia,http://tailieu.vn/doc/detaicamhungnhanvantrongbavokichgiacmongdemhe,demthumuoihai,NguoilaibuonthanhVonido.
5.     Báo cáo khoa học “tình yêu trong bi kịch của Sếcxpia”, Lê Thị Phương Thảo
6.     Giáo trình văn học phương Tây ,NXB ĐHSPHN


 




Nhật kí hoạt động nhóm
     Tên thành viên
                             Nội dung phụ trách
Đỗ Thị Khánh Hường
                 Tìm hiểu chung
Nguyễn Lan Hương
                 Ca ngợi tình cảm cao đẹp
Trần Thị Cảnh
                 Ca ngợi tiếng nói của lương tri, chính nghĩa
Nguyễn Thị Hoa
                 Phê phán chế độ phong kiến
                 Làm powpoint
Nguyễn Thị Huế
                 Ca ngợi con người
                 Chỉnh sửa hoàn thiện bản word
                 Thuyết trình
Dương Thị Quỳnh Lan
                  Phê phán xã hội tích lũy tư bản + tổng kết
                  Chỉnh sửa hoàn thiện bản word

















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét